Cái đầu của cha và trái tim của mẹ
Những năm Tuổi thơ đã đi về đâu...
Trong một giờ học Tiếng Anh với Annie, tôi chợt nhận ra rằng bà ta có những nét tính cách rất giống mẹ tôi. Chỉ có điều bà ta trẻ hơn mẹ tôi đúng 23 tuổi, nghĩa là thuộc về một thế hệ khác. Tôi thích Annie, vì bà gợi tôi nhớ về mẹ, một người phụ nữ Việt nam già cả và quê mùa. Annie được sinh ra ở gần Perth thuộc miền Tây Úc, và là một nhà sinh học, còn mẹ tôi thì sinh ra ở Hà tĩnh, thuộc miền Bắc Trung bộ.
Mẹ tôi không được học nhiều, chỉ tới lớp 3 hay lớp 4 của trường bình dân học vụ thời kháng chiến chống Pháp. Mẹ mồ côi cha từ khi mới 3 tháng tuổi, là con út của một góa phụ nghèo khổ và mù chữ có 4 người con. Mẹ rất siêng năng và có nhiều kinh nghiệm thực tế, điều khiến chúng tôi rất kính trọng và thương yêu mẹ. Mẹ thông minh, tháo vát và rất tốt nữa, một lòng tốt chân chất và tự nhiên chỉ có ở những người quê mùa chưa bao giờ biết đến những phồn hoa và tráo trở của thành thị. Nhưng mẹ cũng rất nghiêm khắc với chúng tôi. Kỷ niệm của tôi về mẹ rất nhiều, nhưng tôi không bao giờ gọi lên được những phút giây âu yếm mẹ dành cho tôi. Hình như mẹ không biết hôn hay vuốt ve chiều chuộng, nhưng mẹ cũng chưa bao giờ nói những lời chì chiết nặng nề với tôi. Tôi chỉ có thể nhớ một lần duy nhất mẹ đánh tôi… bằng sợi lạt gói bánh chưng! (Mẹ đánh chỉ như phủi bụi trên áo tôi, và tất nhiên là khi sợi lạt mềm xèo kia chạm đến thân thì tôi, cô bé tinh nghịch thủa ấy đã cao chạy xa bay).
Thời còn nhỏ, tôi hay bị sốt cao và nhiều khi mê mệt trong những cơn sốt đó. Trong hôn mê, tôi thấy lửa cháy và tôi hoảng sợ cố gắng thoát ra khỏi căn nhà đang bốc cháy. Rồi tôi thấy một cô tiên đến ngồi bên tôi, nhẹ nhàng phủ những cánh hoa mềm mại và mát mẻ lên trán tôi. Cô tiên thật đẹp nhưng hình như không chạm vào được, cô ở ngoài tầm với khi tôi cố gắng nhấc cánh tay nặng nề lên để chạm vào cô. Sự nỗ lực đó khiến tôi bừng tỉnh khỏi cơn mê và mở mắt ra… chỉ thấy mẹ đang ngồi bên cạnh dịu dàng chườm nắm lá ngải cứu lên cái trán đang bừng bừng trong cơn sốt của tôi. Tôi nhìn trân trân vào gương mặt xương xao và cằn cỗi của mẹ. Vâng, mẹ không giống như cô tiên mà tôi thấy trong giức mơ, nhưng… mẹ đã nhẹ nhàng đứng lên và bước đi chỗ khác mà không nói lời nào với tôi. Những lần như vậy nước mắt tôi lại trào lăn trên gò má ửng hồng và nóng ran do cơn sốt.
Hai mươi năm sau, trong một Thiền viện ở Miến Điện, những kỷ niệm kia trở về và nước mắt lại lăn dài trên má tôi trong một giờ thiền tập về tâm từ. Trước khi qua Miến Điện mấy năm, tôi đã tìm hiểu về các pháp môn tu tập, tôi mua cuốn Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) do Ni sư Trí Hải dịch và miệt mài đọc hết phần Giới và Định. Đọc đến đâu tôi cố gắng áp dụng những gì tôi đã học được từ cuốn sách đó. Trong phần về tu tập Định, tôi chọn cho mình đề mục tâm từ và hơi thở như là những đề mục chính để hành thiền bất cứ lúc nào có cơ hội. Tôi tự xét mình có nhiều tâm sân và tâm bất mãn, tu tập tâm từ chính là pháp đối trị. Chúng tôi cũng nhận thấy tư tưởng mình không được tập trung lắm, nên tu tập niệm hơi thở để gom tâm không cho suy nghĩ lung tung làm mất năng lượng. ChúngTôi tu tập theo sự hướng dẫn trong sách được hơn một năm, nhưng không thấy có kết quả tốt nên đã xin Sư bà cho tôi đi tìm thầy học đạo. Sư bà đồng ý với điều kiện là tôi chỉ nên đi khi trong chùa đã có người thay thế tôi làm những công việc của một chú tiểu, tri khách và thị giả. Riêng việc tụng kinh cầu an, cầu siêu và dạy dỗ các em nhỏ mồ côi trong chùa thì tôi đã không tìm được người thay thế cho đến khi sư tỷ tôi từ Huế trở lại chùa. Và tôi đã khăn gói rời chùa trong niềm thương tiếc của sư bà và hàng trăm Phật tử thường lui tới chùa. Ngày tôi rời chùa để vào Nam tìm thầy tu thiền, cái sân ga bé nhỏ và lộn xộn ở Tp Vinh trở nên đông nghẹt người như một cuộc biểu tình, tôi cũng không ngờ người đưa tiễn lại đông như vậy.
* *
*
Hình như tôi được sinh ra từ đầu của bố, một người đàn ông tuy được sinh ra trong một gia đình khá giả nhưng lại rất kém thực tế và kém may mắn. Bố cũng không được học nhiều do những sự kiện bất hạnh xẩy ra trong gia đình vào nhưng năm 1934-5, lúc đó bố chỉ mới 11 tuổi và chỉ mới bập bẹ nói và đọc Tiếng Pháp. Chỉ vài năm sau cậu bé bướng bỉnh và khá hư do quá được nuông chiều đó đã phải bắt đầu đời sống lưu vong không gia đình, không người thân ở Thượng Hải, và sau đó là Thái lan, Viên Chăn. Khi người bảo trợ của bố qua đời đột ngột ở Thượng Hải, bố đã được một người phụ nữ tốt bụng đưa đến Bangkok rồi Udon thani. Bố phải đi bán báo dạo, làm bánh gato, và hầu bàn ở Bangkok . Những khi không có việc làm, bố nương tựa cửa chùa, vốn rất nhiều ở Thái lan và Lào, nhưng bố cũng biết rằng bố không thể trở thành nhà sư do bố không hoàn toàn tin tưởng vào lý thuyết nghiệp báo, phước –tội của Đạo Phật. Một số nhà truyền giáo Thiên Chúa mời mọc bố tham dự vào các hoạt động của họ, hứa là sẽ cung cấp việc làm và một đời sống ổn định cho người thanh niên không gia đình, không tổ quốc đó, nhưng bố đã từ chối. Bố giải thích rằng niềm tin vào Chúa trời rất xa lạ với bố, và bố không thể lừa dối chính mình hay lừa dối người khác để có một đời sống thoải mái hơn. Nhưng khi những người cộng sản đến tuyên truyền và mời bố tham dự vào tổ chức của họ, trở về Việt nam chiến đấu giành lại độc lập cho tổ quốc, thì bố đã bằng lòng. Bố đã chọn cho mình một lý tưởng sống ở tuổi 22, và sau đó là những năm tháng gian khổ hãi hùng của người chiến binh trong Trung đoàn quân tình nguyện yêng hùng một thời ở vùng Thượng Lào và Tây Bắc Việt nam.
Ngày tôi còn nhỏ, bố thường kể cho tôi nghe về những năm tháng gian khổ của cuộc đời lưu vong, về chùa chiền, sư sãi ở Thái Lan và Lào, về phong tục tập quán của những xứ sở khác, và cả về những năm tháng ác liệt và sự tàn nhẫn của chiến tranh. Có một lần, khi nghe bố kể về tập tục cúng dường sư sãi ở Thái và Lào, tôi ngây thơ hỏi bố: “sao gia đình ta không ở đó để con được bỏ bát cho các nhà sư?” Bố cười xoa đầu tôi nói rằng ở Việt nam không có các nhà sư cho tôi bỏ bát nhưng khi có ăn mày đến tôi cho họ thức ăn, nước uống cũng tốt rồi vậy.
Con hổ con trong mỗi người
Tôi được bố và các anh chị lớn khá cưng chiều, vì tôi học giỏi và gần như không biết nói dối. Nếu tôi phạm lỗi, tôi luôn tìm cơ hội gần nhất để thú tội và xin hình phạt xứng đáng với tội mình đã phạm. Thường thì tôi không bị phạt đòn như các anh chị tôi đôi khi bị, bố nói vì tôi biết sám hối. Nhưng cũng chính điều này khiến tôi hình thành một bản ngã cho rằng mình luôn đúng. Ở nhà, các chị tôi luôn nhường nhịn tôi. Một hôm, tôi cùng chị Dung Anh tranh cãi về một điều gì đó khá kịch liệt. Bố chúng tôi đến, và khiến tôi kinh ngạc và phẫn nộ khi bố nói tôi sai, chị Dung Anh đúng. Năm đó tôi 7 tuổi, và chị thì 9 tuổi, đó là lần đầu tiên tôi nhớ bố đã không ‘bảo vệ tôi’, và tôi lập tức chạy lao vào khu rừng gần trang trại nơi tôi và chị đã cãi nhau. Tôi vừa chạy vừa la lên: “Hổ ơi, hãy đến mà ăn thịt ta, ta muốn chết, như vậy bố mới bị trừng phạt!” Đó không phải là lần đầu tiên tôi tức giận với bố. Năm tôi khoảng 5-6 tuổi, một hôm tôi thức dậy rất sớm vì những âm thanh lạ từ nhà bếp, tôi vừa dụi mắt vừa rón rén đi đến cánh cửa thông vào nhà bếp, tôi thấy mẹ đang ôm em bé vào lòng và khóc thút thít, bố thì giận dữ đi quanh và quát tháo, xỉ vả… Tôi đã rất sợ hãi, đứng run rẩy trong bóng tối. Tôi muốn đến bên mẹ dỗ dành mẹ và em bé, nhưng tôi cũng sợ những âm thanh đe dọa phát ra từ miệng bố…
Sáng hôm đó khi bà ngoại đến thăm chúng tôi, hình như bà linh cảm thấy có chuyện không lành nên đã lặn lội đi bộ gần 10 km đường đá cuội để đến thăm chúng tôi. Bà mang theo một gói kẹo khá lớn cho các cháu, nhưng khi bà vừa bước vào nhà để chia kẹo cho các cháu thì bố tôi giận dữ xuất hiện và cầm gói kẹo ném ra khỏi nhà. Mọi người chưng hửng, cả mẹ và bà ngoại đều khóc, em bé trong tay mẹ cũng giãy dụa la thét. Nhìn nước mắt đầm đìa trên gương mặt nhăn nheo của bà ngoại, và như bị kích động bởi tiếng khóc thét của em bé, tôi bỗng dưng không còn là cô bé con nữa. Tôi nhảy lên chiếc bàn gỗ lim duy nhất trong nhà (để đứng cao hơn bố). Tôi dõng dạc nói với bố: “Nhân nào quả đó, nay bố đối xử tệ bạc với bà ngoại, sau này khi bố già con cái bố cũng sẽ xem bố không ra gì.” Câu nói kỳ lạ kia phát ra từ miệng của đứa bé mới sáu tuổi chưa chính thức vào lớp một đã làm bố chúng tôi tỉnh ngộ. Những ngày sau khi sóng gió trong gia đình đã bình lặng bố nói với tôi: ngày xưa khi bố còn ở Thái Lan, có một nhà sư già cũng thường khuyên bố tin vào nhân quả nghiệp báo để sống tốt với mọi người, bố không ngờ nay đứa con gái nhỏ mà bố thương yêu nhất lại nói lại điều tương tự như vị sư già ở miền Đông Bắc Thái Lan năm nào.
Môi trường trong gia đình đã khiến tôi nhiều khi tự đặt mình vào vị trí quan tòa một cách vô thức và muốn có sự công bằng bất cứ nơi nào tôi có mặt. Một sự kiện khác xẩy ra, hình như tôi đang học lớp hai (8 tuổi), khi đám con trai xua đuổi đám con gái ra khỏi khu vực mà con gái đang chơi, các cô bé chạy dạt đi, không ai muốn đối đầu với đám con trai hay bắt nạt. Nhưng tôi đã không chịu nhường nhịn, tôi thách thức lũ con trai, và vài đứa trong số chúng đã lao vào đánh tôi. Tất nhiên là tôi bị thua, chạy về nhà với cái mặt sưng vù. Tôi hy vọng các anh trai tôi sẽ can thiệp và ‘dạy cho đám mất dạy’ kia một bài học. Nhưng các anh tôi đã đi vắng, khi mẹ biết chuyện, mẹ la tôi là “Bụt trên chùa gà nào nhảy lên mổ”. Điều này có nghĩa là vì tôi cũng không hiền lành nết na gì nên mới gây lộn với đám con trai ở trường. Và mẹ tuyên bố là sẽ không có sự can thiệp nào hết, tôi phải biết học cách để sống hòa thuận và biết nhường nhịn với mọi người. Câu nói của mẹ làm tôi rất thất vọng và khóc suốt gần hai giờ, cho đến khi các chú bộ đội (ở gần nhà chúng tôi) đến an ủi và hứa là sẽ đến trường nói với thầy hiệu trưởng về chuyện con trai bắt nạt và đánh con gái ở trường tiểu học mà tôi đang học.
* *
Khi tôi còn trong Trung học, tôi đọc những bài thơ như “Tây tiến”, “Tôi bắn hắn rồi”, “Núi Đôi”, vv tôi hình dung ra một thời của bố. Nhưng năm tôi 7- 8 tuổi, bố kể cho tôi nghe nhiều câu chuyện rùng rợn và đầy thương tâm mà bố đã trải qua trong những năm chiến tranh. Chúng không đẹp như thơ, chúng chỉ đơn giản là bản năng sinh tồn trong điều kiện chiến tranh du kích… Bố kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện, vì trong số những người con của bố chỉ mình tôi muốn nghe và tỏ ra thông cảm với những gì bố đã trải qua. Đến năm tôi 13 tuổi thì bố đã có thể chia sẻ với tôi hầu hết về lý tưởng và cuộc đời của mình. Tuy nhiên, tôi đã bắt đầu ‘nổi loạn’ và không phục cách cư xử của bố, mặc dù vậy bố vẫn rất ưu ái và tự hào vì tôi luôn đạt những thành tích tốt trong học tập. Đôi khi bố thở dài và cố tỏ ra nghiêm khắc hơn với tôi, bố nói: “lý tưởng rất xa rời với thực tế”.
Vâng, đó là kinh nghiệm xương máu của bố, và bố không muốn các con mình lại rơi vào ‘lý tưởng’ như ông đã từng, để rồi khi nhận ra thì đã quá già để sửa lại. Bố đã không có đủ thời gian, ý chí và kiến thức để làm lại cuộc đời mình.
Trong số những người con của bố thì có đến gần một nửa ‘kém thực tế’ như bố, lại ưa đi đây đi đó, không chịu ở yên một chỗ. Tôi là đứa con gái duy nhất có khuynh hướng đó. Nhưng tôi khác bố và mẹ rất nhiều. Tôi ham đọc sách ngay từ khi mới 6-7 tuổi. Thường tò mò tìm hiểu về cuộc sống quanh mình, tuy nhiên con bé đó cũng có khuynh hướng hướng nội và suy tư, trầm tưởng trước tuổi. Khi tôi còn ở Trung học, bạn bè gọi tôi là “bộ bách khoa toàn thư sống”. Tôi đọc sách triết học, lịch sử, khoa học và các tác phẩm văn học cổ điển. Vào tuổi 15, tôi bắt đầu viết tiểu luận, làm thơ, và bập bẹ sáng tác nhạc nữa, nhưng môn toán vẫn là môn tôi có điểm số cao nhất. Mẹ thường nhắc nhở tôi: “leo cao thì ngã đau.” Tôi đã ngã khá đau ở tuổi 14, khi thi trượt vào trường chuyên toán của tỉnh. Gần như đó là lần đầu tiên tôi biết thất bại và cay đắng, chán đời. Con bé không được hướng dẫn tâm linh đó đã không biết cách vượt qua thất bại đầu tiên một cách nhanh chóng. Ba năm sau, nó tiếp tục nếm mùi thất bại trong khoa cử và không còn đủ nước mắt để ‘khóc nhè’ nữa. Khi thấy câu danh ngôn “không có nỗi đau nào như đau đớn khi mất tình yêu.” Cô bé đó đã bật cười đính chính: “Vậy mà cũng gọi là danh ngôn! Phải nói rằng không có nỗi đau nào kinh khủng như khi thi trượt!” Khi các anh chị lớn của tôi nói về sự nghiệp và gia đình, và mẹ tôi cho rằng người phụ nữ thường phải chọn gia đình và hy sinh sự nghiệp nếu muốn có hạnh phúc. Tôi đã không phục. Tôi nói với chính mình: "ta sẽ chọn sự nghiệp." Tuổi niên thiếu của tôi đã kết thúc giữa sự giằng xé giữa lý trí và tình cảm. Cuối cùng thì lý trí đã thắng. Tôi trở thành một cô gái cô đơn trước tuổi.
Mẹ kể rằng khi mẹ đang mang thai được 3 tháng thì gia đình dọn sang một ngôi nhà mới. Bố và những người thợ đang lợp nhà (bằng lá cọ). Một thanh gỗ từ trên mái nhà đã lao xuống và đâm thẳng vào lòng mẹ lúc đó đang ngồi chẻ lạt dưới sân. Mẹ bị băng huyết nhẹ nhưng cái thai vẫn không bị sa sẩy. Ba tháng sau, khi mẹ, như thường lệ, mở chuồng bò vào lúc sáng sớm, và con bò đực thường ngày hiền hòa nay bỗng nổi cơn điên lao vào tấn công mẹ. Nó chỉ nhằm vào cái bụng đang mang thai sáu tháng của mẹ mà chọc vào. Ba lần mẹ bị hất lên không trung nhưng cả ba lần mẹ đều thoát chết. Dùng hết sức bình sinh, mẹ lấy hai tay đỡ lấy sừng bò, không để nó chọc vào bào thai. Khi tiếng kêu cứu của mẹ đến tai bố và những người hàng xóm, họ chạy đến và đuổi con bò điên đi chỗ khác. Mẹ chỉ phải nằm dưỡng sức trên giường mấy ngày, nhưng vẫn không bị sẩy thai. Đó là điều kỳ lạ thứ hai trong lần mang thai thứ sáu của mẹ.
Tôi đã nằm trong đó, dù sóng gió và mọi chuyện không may đã xẩy ra. Đó cũng là thời kỳ bố chúng tôi bị kỷ luật rất nặng phải chuyển công tác đến vùng biên ải, nơi tôi đã sinh ra trong căn nhà tạm bằng gỗ lợp lá cọ. Tôi sinh ra sau lần mẹ bị tai nạn lần thứ ba, khi tôi đã gần 9 tháng trong bụng mẹ. Hôm đó mẹ dậy sớm để chiên cơm cho bố ăn đi làm. Trời còn tối, mẹ chỉ có cây đèn dầu leo lét trong tay mò mẫm xuống bếp. Khi mẹ với cái thai nặng nề cố ngồi xuống thì không may trượt chân té xuống cái ghế nhỏ sắc cạnh bằng gỗ lim. Cạnh ghế đâm vào cửa mình làm máu chảy lai láng. Mẹ chỉ kêu được một tiếng “bố nó ơi” rồi ngất lịm. Khi bố chạy tới thì mẹ đã bất tỉnh nhân sự. Mấy giờ sau, khi mẹ đã được đưa vào bệnh viện, bác sĩ nói mẹ đã chết lâm sàng, còn tôi, cái thai vẫn quấy đạp yếu ớt trong bụng mẹ. Lúc đó bác sĩ phải quyết định nhanh chóng là phải ‘phá thai cứu mẹ’. Và tôi đã được họ dùng thủ thuật để lấy ra.
Tuy nhiên tôi đã không chết, mặc dù rất yếu ớt. Đó là những ngày lạnh lẽo của một mùa Đông u ám vào năm 1969. Không ai tin rằng một sinh linh như vậy có thể sống sót trong hoàn cảnh nghiệt ngã của chiến tranh và bom đạn, khi cái ăn, cái mặc thiếu thốn và lòng người lo lắng bất an thường xuyên. Nhưng tôi đã sống sót. Chỉ sau sáu tháng, thấy tôi đã có vẻ cứng cáp, bố đi làm giấy khai sinh với cái tên Phạm thị Minh Hoa. Khi bố thông báo cho mẹ biết cái tên khai sinh của tôi, mẹ đã không bằng lòng với chữ “thị”. Mẹ nói tôi không cần chữ đó trong tên họ trên giấy trắng mực đen, và vì bất mãn với chữ ‘thị’ mẹ và bà ngoại đã gọi tôi bằng một cái tên khác. “Nga”, mẹ nói vì tôi có chiếc cổ rất dài, cũng có thể mẹ muốn gọi tên con gái theo tên của một số cường quốc vì người chị gái gần tôi đã có tên là “Anh”, và đứa em sau tôi lại có tên là “Mỹ”. Hừm, bây giờ thì tôi không thực sự nhớ vì sao mình lại có hai tên ngay lúc mới sinh ra nữa. Sau này khi đã đi tu tôi còn có thêm nhiều tên khác nữa, nhưng khi đã hiểu đạo, tôi không còn thắc mắc vì sao. Chúng chỉ là những tên gọi, là ‘danh xưng’ chẳng mấy liên quan đến bản thân tôi, mà tôi là ai lại là một câu hỏi lớn cần phải giải quyết nữa. Ý tưởng đó dẫn dắt những hành trình vạn dặm sau này.
Mọi người đều có một nơi để trở về hay để đến, còn ta, ta đi về đâu?
Đó là một buổi chiều, tôi đang đạp xe trên đường Quang Trung, tôi có hẹn tối đó với một vài người bạn nhưng tôi bỗng đổi ý không muốn đi dự sinh nhật bạn như đã hứa. Tôi dừng chân dưới bóng cây bên đường trong chiều tà nhìn dòng người tất bật ngược xuôi trên đường phố. Tôi bỗng tự hỏi, mọi người đều có nơi để đến, còn tôi, tôi đi về đâu? Tôi không có nhà trong thành phố này, tôi đang ở trọ trong nhà của một người anh họ. Nhưng câu hỏi thực sự là: tôi sẽ làm gì với cuộc đời mình? Tôi đã 18 tuổi, đang ôn thi đại học sau một lần thi trượt. Tôi định trở thành kỹ sư nông nghiệp vì tôi muốn có những kiến thức cần thiết để giúp người nông dân cải thiện đời sống lam lũ của họ. Nhưng việc học của tôi không được tập trung lắm. Đầu óc tôi mông lung với đủ thứ chuyện và tôi không thực sự biết mình cần phải làm gì với cuộc đời này. Tôi sẽ đi về đâu? Chợt đâu đó trong thing không vẳng lại tiếng chuông chùa xa thẳm, xa thẳm như ánh mắt cô gái hoang dã tuổi mười tám không biết đi về đâu. Cô cũng không xác định được tiếng chuông từ đâu bay đến, có hay không một cõi đi về?
Mùa hè năm đó những sự kiện không may dồn dập đổ lên gia đình chúng tôi. Người anh trai lớn vết thương sọ não tái phát phải nhập viện đã mấy tháng mà không có một phương pháp chữa trị thích hợp. Người chị gái lớn mới lập gia đình được sáu tháng bị chửa trứng và phải nạo phá thai liên tục để làm sạch những tế bào không bình thường trong tử cung. Những sự kiện đó ảnh hưởng lên cô gái tuổi mười tám nhiều mơ mộng. Cô không còn thời gian để mơ mộng nữa, mỗi ngày sau buổi học chiều, cô phải vào những bệnh viện khác nhau thăm nuôi anh chị. Số tiền ít ỏi của gia đình chu cấp chỉ đủ cho cô mua những món quà rẻ tiền và những món ăn cũng rẻ tiền cho anh và chị. Suốt ba tháng liền cô vào ra hai bệnh viện khác nhau, chứng kiến những cơn đau đớn của bệnh nhân, nhất là của những bệnh nhân khoa sản, nơi chị gái cô là một bệnh nhân dài hạn. Cô săn sóc chị thật chu đáo, và cố tìm ra những chuyện đùa nho nhỏ để làm cho chị vui. Những buổi chiều tà đến thăm anh trai ở bệnh viện, cô không thể vui được. Đã hơn hai tháng anh trai cô không ăn những thức ăn của bệnh viện cung cấp, anh chỉ ăn mấy chiếc bánh gato nhỏ xíu do cô mang vào, tự tay bóc và đưa vào miệng cho anh. Sau đó cô kể chuyện cho anh nghe, hay đọc sách. Bác sĩ cho cô biết anh cô có thể không sống lâu nữa, cô cố gắng làm tất cả những gì mình có thể làm được cho anh. Anh cô chỉ mới 27 tuổi đời nhưng các y tá và hộ lý trong bệnh viện cứ tưởng anh là ba của cô.
Không còn những đêm trăng sáng của một mùa hè năm trước, khi chị cô chưa lấy chồng, anh trai còn khỏe mạnh. Mùa hè tuổi mười sáu và mười bảy của cô trôi đi thật nhanh. Những ngày tháng sum vầy khi anh từ Sài gòn về thăm nhà, cô và chị gái có thật nhiều sách để đọc. Những đêm Hè đó khi trăng sáng cô cùng anh trai, các chị và các bạn của họ đàn và hát những bài dân ca. Anh trai cô chơi đàn rất hay, anh có thể chơi đàn bầu và đàn Ghita. Những bản độc tấu Ghita cổ điển vẫn còn vang vọng trong tiềm thức cô nhiều năm sau đó. Những buổi nói chuyện về văn chương, hội họa và âm nhạc của những mùa hè năm nào nay thật xa xăm. Cô đọc cho anh nghe về một số chuyên ngắn mà cô đã viết. Anh chỉ mỉn cưới nói: “Em có năng khiếu viết văn, nhưng em cần nhiều kinh nghiệm sống thực tế hơn để viết hay hơn.”
Những buổi chiều tà trong bệnh viện cô có đọc cho anh nghe một số chuyện viết về chiến tranh. Anh bảo cô đừng đọc những chuyện nhảm nhí đó nữa. Anh nói vì những kẻ viết nó không biết gì về chiến tranh, hoặc biết chút ít nhưng không đủ dũng cảm nói lên sự thật, do đó sách của họ chỉ là rác rưởi hay vài thứ nhồi sọ củ rích và sáo mòn. Và anh cũng nói một ngày nào đó nếu anh viết, anh sẽ viết một cuốn sách thật cô đọng, những kinh nghiệm sống, những hoài bão của anh trong cuộc đời. Cuốn sách của anh sẽ làm người đọc không bao giờ quên, và cũng qua đó họ có thể sống tốt đẹp hơn. Anh không bao giờ viết được cuốn sách đó, vì cuộc sống của anh quá ngắn ngủi. Tim cô nhói đau nhiều năm sau đó mỗi khi nhớ đến điều này.
Bài ca hy vọng
Năm cô bé được 13 tuổi thì anh trai lớn nhất của cô trở về nhà từ một Bệnh viện quân đội thuộc Quân khu 7. Khi ra đi nhập ngũ, anh là một người thanh niên trai tráng 21 tuổi đời, cao 7,74 cm và nặng 67 kg. Hơn hai năm sau anh trở lại là một thương binh chỉ có một chân và những vết thương sọ não do mảnh đạn. Anh bước đi với sự trợ giúp của 2 chiếc nạng gỗ. Chiều cao của anh vẫn như vậy nhưng anh gầy đi rất nhiều, nét mặt trắng xanh và hốc hác, riêng đôi mắt vẫn sáng, tuy nhiên đượm buồn, và đôi khi, vài niềm u uẩn. Khi ngồi viết lại những trang này cô ước mong phải chi anh còn sống đến bây giờ, cô có thể nói chuyện với anh về cuộc đời, về con người và sự thay đổi của thế cuộc. Nay cô đã ngoài 40, cái tuổi của một người phụ nữ trưởng thành, đã trải qua những hạnh phúc và đau khổ trong cuộc đời, những được và mất, những vinh và nhục do tình yêu, sự thành đạt, địa vị, hay khả năng thu hút người khác đưa lại, và cả những mất mát, những thất bại và đau khổ trên đường đời.
Những giức mơ xa
Tôi mơ mộng khá nhiều, và thường xuyên bị vỡ mộng nhưng vẫn cứ mơ tiếp. Những giấc mơ xa của tuổi thơ, về tình bạn, tình yêu, và cả về một thế giới khác nữa. Trong một thế giới khác đó, tôi là một cô bé mặc toàn đồ màu trắng, biết chơi những bản nhạc du dương bên cây đại dương cầm, đọc sách trong một thư viện uy nghiêm và đi dạo trong một khu vườn xinh đẹp. Rằng cha mẹ thực sự của tôi là những người khá giả và có học thức, họ sống trong một thế giới khác, vâng, rất khác với cái thế giới mà tôi đang có trong hiện tại. Dù có mơ màng như vậy nhưng tôi vẫn rất yêu thương bố mẹ hiện tại của mình, và cô bé đó đã làm tất cả những gì mình có thể làm được để bố mẹ vui lòng và để bảo bọc những đứa em vô tội.
Đã có những lúc tôi nghĩ rằng tôi đã yêu ai đó hay ai đó yêu tôi và cũng mơ màng đủ thứ nhưng trên thực tế mọi chuyện đều xẩy ra hoàn toàn khác. Tình yêu, hay những mơ tưởng về tình yêu thật đẹp nhưng chúng không chịu đựng nổi thực tế phủ phàng. Nhạc sĩ Thanh Tùng có viết rằng: “có những lúc em cười thật buồn, sao em không khóc cho lòng nhẹ hơn”, tôi đã từng là cô gái như vậy. Cứ thế, những năm tuổi thơ đi qua. Tôi đã khóc thật nhiều sau mỗi lần vỡ mộng, rồi đứng lên từ những vỡ nát của những giức mơ xa bật cười thấy rằng mình chỉ là cô gái ngớ ngẩn.
Trong một chiều Đông buồn bã, sau cái chết của người anh trai lớn, cô quyết định sống đời xuất gia thực sự. Trước đó, những năm học sư phạm ở Nha Trang, cô đã đi chùa, cảm mến màu áo lam, và nhất là chiếc áo nhật bình của các sư cô.
Khi tôi gặp Thầy và xin được làm đệ tử tu tập dưới sự hướng dẫn của Thầy, Thầy hỏi tôi (có thể vì thấy tôi còn quá trẻ): “Con đã bao giờ yêu chưa?” Tôi thành thật trả lời: “con cũng không biết nữa: hoặc là chưa bao giờ, hoặc là quá nhiều.” Cho đến ngày quyết định xuất gia, tôi vẫn còn buồn và vẫn còn rất nhiều nước mắt. Từ khi cạo đầu, chính thức mặc bộ đồ nâu sồng và phát nguyện quên hết chuyện đời, tôi vui hẳn lên. Sau khi đọc Kinh Lăng nghiêm (Surangama sutta), tôi liễu ngộ ra sự phi lý của tình cảm con người. Nhìn thấy vô minh như vô minh, tôi có được minh để không còn đắm chìm trong những ảo mộng do tư tưởng dệt thêu nữa. Buồn ơi chào nhé.
Người Bán Hàng rong năm ấy
Cô đứng trên thềm chánh điện của một ngôi chùa cổ. Nắng chiều đang nhạt dần trên những tán cây chỉ còn lơ thơ vài cọng lá và chồi non chưa kịp bung ra. Trời đã vào tiết xuân nhưng còn se se lạnh. Vài người khách vào chùa. Họ là một người đàn ông ngoài 40 dong dỏng cao và ốm nhưng gương mặt vui vẻ và dáng người hoạt bát. Người phụ nữ cùng đi với anh ta hơi thấp và tròn trịa, chị ta là một thiếu phụ độ ngoài 30. Họ chắp tay xá chào ni cô trẻ tuổi rồi xin phép nói chuyện với cô. Thì ra người đàn ông là một người bán hàng rong từ
- Có một cây chết đứng.
Người đàn ông kỳ lạ nhìn thẳng vào mắt cô, cái nhìn vừa dịu dàng, vừa nghiêm khắc:
- Ai đang chết đứng?
Ni cô giật mình nhìn kỹ hơn vào người đối diện. Vâng, ông ta có ánh mắt rất kỳ lạ, và cô cảm thấy mến con người phiêu bạt giang hồ đó. Kể từ buổi chiều hôm đó, hễ khi nào ông ta đến chùa, cô thường bảo mấy em nhỏ mồ côi trong chùa đưa biếu ông một vài thứ gì đó để ông lót bụng. Chùa Ni cô đang tu có rất nhiều đồ ăn dư, vì ngày nào cũng có người đến cúng cầu siêu, cầu an, và những mâm cỗ chay cầu siêu thường dư lại rất nhiều, đặc biệt là chè và oản xôi. Ni cô xin phép sư bà ‘phát lộc’ cho người đang ông kia hầu như mỗi ngày. Và ông ta ghé chùa nhiều hơn, nhưng Ni cô thường quá bận rộn nên không có thời gian nói chuyện với ông. Cuối năm đó ni cô được sư bà cho phép lên đường ‘tìm thầy học đạo’. Cô khăn gói lên đường. Khi xếp đồ đạc để ra đi, sư bà đưa cho cô một chiếc chìa kháo nhỏ và bảo cô mở tủ, lấy ra một chiếc hòm sắt tây nhỏ. Trong đó có mấy bộ đồ lam còn mới nguyên. Đó là những bộ đồ mà các Ni sư ở Huế, Đà nẵng và Sài gòn may biếu sư bà những năm qua, nhưng sư bà chưa bao giờ mặc chúng. Sư bà vẫn mặc bộ đồ nâu sồng rất giản dị bằng vải rẻ tiền do chị gái sư bà may cho. Bằng một bàn tay, chi phần duy nhất còn hoạt động của mình, sư bà lấy đồ ra đưa cho người đệ tử thương yêu và dịu dàng nói:
-Em vào Miền nam học đạo, ở đó các Ni cô mặc đồ màu lam. Sư cho em những bộ đồ này để mặc khi nhập chúng tại chùa ở Miền nam.
Ni cô nước mắt rưng rưng cầm lấy bộ đồ còn mới nguyên, và vài bộ đã có những vết ố vàng do thời gian, mặc dù chúng chưa bao giờ được dùng đến. Những năm qua tu hành trong ngôi chùa cổ quê mùa lam lũ, hầu hạ sư bà, dạy dỗ các em nhỏ mồ côi và làm lễ cầu an, cầu siêu cho tín thí quanh vùng, Ni cô vẫn chỉ mặc có một bộ đồ nâu bằng vải thô đã bạc màu với nhiều mảnh vá. Khách thập phương thường lấy làm ái ngại nhìn cô gái trẻ tuổi khả ái và có học thức tu hành trong điều kiện khắc khổ như vậy. Ni cô thường chỉ mỉn cười, ít nói chuyện vì công việc phải làm quá nhiều. Khi công việc trong chùa đã tạm ổn, cô ra ngồi đước gốc nhãn ngoài vườn tháp, nhìn xa ra cánh đồng hay chỉ đơn giản nhắm mắt tịnh tâm. Đó là những phút nghỉ ngơi duy nhất của cô trong ngày.
Một thời gian sau buổi chiều gặp gỡ với người đàn ông bán hàng rong hơi kỳ lạ kia, Ni cô được biết ông ta đã từng một tu sĩ. Ông đã từng là trụ trì của một ngôi chùa lớn tại Khánh hòa, là trưởng ban đại diện phật giáo của huyện Tuy hòa. Thế rồi một hôm ông bỏ chùa to Phật lớn ra đi, không ai biết ông đi đâu. Nhiều tiếng đồn trái ngược nhau. Người thì bảo ông ‘rơi vào cạm bẫy tình yêu’ với một thiếu phụ đã có hai con. Ông bỏ chùa đi theo cô ta. Người thiếu phụ đó chính là người phụ nữ mà Ni cô đã gặp buổi chiều đầu tiên cô gặp họ đến chùa này. Nhưng qua một lần nói chuyện hiếm hoi giữa hai người, đó là ngày cuối cùng Ni cô ở ngôi chùa cũ của sư bà, đêm đó ni cô phải lên tàu vào Miền Nam. Rất nhiều Phật tử đến chia tay với Ni cô, một số rơi nước mắt bày tỏ rằng họ sẽ rất nhớ tiếc khi tới chùa mà không còn thấy bóng dáng mảnh khảnh nhưng nhanh nhẹn và dịu dàng của Ni cô vào ra. Người bán hàng rong ở lại chùa gần như suốt ngày hôm đó. Khi có cơ hôi thuận tiện, ông ta nói với cô:
- Những gì xẩy ra với Ni cô ngày hôm nay làm tôi nhớ lại hơn 20 năm trước. Ngày đó tôi cũng xin phép sư phụ rời chùa lên đường học đạo ở Phương nam…. Tôi đã trở lại sau bốn năm học ở Sài gòn. Tôi trở thành trụ trì khi sư phụ tôi qua đời. Tôi đã có rất nhiều tín đồ, nhưng… rồi một ngày tôi bỏ chùa ra đi. Bây giờ Ni cô thấy đó, tôi là người bán hàng rong lang thang trên vỉa hè, trong những làng mạc hẻo lánh ở vùng này. Đây là cách tôi thấy rất tốt để đưa Đạo Phật trở lại miền đất này. Tôi đến với trẻ con, với những người không quá bận rộn với miếng cơm manh áo hàng ngày mà trở nên chai sạn với cuộc đời khốn khó. Cũng qua cuộc sống lang thang không nhà này, tôi thấy mình rõ hơn là khi làm một ông thầy khả kính của thiên hạ…
Vâng, đó cũng là một cách truyền đạo và tu hành, cô nghĩ bụng: biết đâu một ngày nào đó cô cũng có thể từ bỏ tất cả, kể cả chiếc áo nâu sồng và hình thức tu hành trong quan niệm của nhân gian, để làm một người “không tên, không tuổi, không chỗ đứng trong xã hội giai từng, không là gì cả. Chỉ là mình với nụ cười từ ái, khiêm nhường nhưng đầy trí tuệ và đó mới thực sự là vô ngã.”
Không hợp thời
Sống vào cuối thế kỷ 20 nhưng tôi lại đọc những sách của những Thế kỷ trước công nguyên hay thời Trung cổ. Tôi không biết rằng nay người tu Phật không còn áp dụng những tiêu chuẩn đạo đức của chư Phật, chư tổ nữa. Vào Tp Hồ Chí Minh tìm thầy học đạo tôi được gặp những ‘thầy’ và ‘cô’ của thế kỷ 20. Họ nhìn Ni cô trẻ như nhìn một kẻ áo rách khố ôm không rõ nguồn gốc tên tuổi. Em gái tôi đưa tôi đi từ chùa này qua chùa khác nhưng không ai chấp nhận cho tôi ở cả. Cuối cùng, mãi đến gần nửa đêm, nhờ sự can thiệp của Ht Thích Minh Châu, một ngôi chùa Ni chấp nhận cho tôi tạm trú. Khi tôi xin nhập học tại một phật học viện, người ta tống khứ tôi ra ngoài với những lời lẽ rất thiếu lịch sự chỉ vì tôi không có hộ khẩu Tp HCM. Em gái tôi một kẻ vô thần như hầu hết các thành viên khác trong gia đình, buồn bã hỏi tôi: “tại sao chị lại chọn một đời sống như thế này?”
Em đã nhiều lần nói rằng thật uổng phí tài năng và tuổi trẻ của tôi khi tu hành với những người như vậy. Tôi trả lời em rằng những thử thách mà tôi đang gặp phải chỉ là một phần nhỏ so với Chư Tổ ngày xưa tầm thầy cầu đạo. Rằng tôi rất cám ơn những người đã cư xử hết sức thô lỗ đó, họ dạy cho tôi biết kiên nhẫn, dịu dàng và không sân hận ngay cả khi bị đối xử tồi tệ. Em tôi không thể hiểu những gì người chị rất thân thương nhưng cũng rất bí ẩn của mình đang nói, tuy nhiên, em vẫn kiên nhẫn đưa tôi đi trên chiếc xe đạp của một công nhân hiệp đồng trong cái thành phố đang vươn mình lên trong cái nhộn nhạo của nền kinh tế thị trường vừa mở cửa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét