Điều kiện tiên khởi cho việc lựa chọn pháp môn tu hành này là sự nhận chân bản chất bất toại nguyện trong đời sống, và phát khởi động lực muốn đạt đến hạnh phúc tối thượng của Niết bàn.
1. Hành giả phải thấu hiểu (bằng trí tuệ quán chiếu thấy như thực (yathābhūtaṃ, không qua suy nghĩ hay biện giải) rằng cuộc đời quả là đau khổ (dukkha) và không toại nguyện.
2. Lắng nghe với sự chú tâm tuyệt đối vào những thời pháp giảng về Tứ Diệu Đế từ Đức Phật hay từ một vị Đệ tử Phật đã giác ngộ chân lý tối thượng và có khả năng hướng dẫn người khác vào Đạo lộ Giải Thoát (Bát Thánh Đạo).
3. Khi nghe pháp, hành giả nên thấy rằng:
(i). Thân thể mà y cho là “tôi” hay ‘của tôi” quả thật chỉ là một đống khổ đau, bất toàn.
(ii) Nguyên nhân của khổ đau là do sự liên hệ chặt chẽ giữa thân và tâm gọi là “tâm tham ái” = taṇhā gồm ba khía cạnh: dính mắc vào đối tượng (kāma), thủ chấp rằng có một cái “ta” trong các giác quan (bhava), và tự động lưu giữ, đồng hoá với các kinh nghiệm đã trải qua, xem đó là “hình ảnh ta” (vibhava taṇhā = viññāṇa = self-image, self-consciousness);
(iii) Chặt đứt sợi dây ràng buộc kia sẽ đem đến một trạng thái tự do hoàn mãn, một hạnh phúc tối thượng không bị điều kiện hoá (nibbāna = asankhāra cittaṃ).
(iv) Con đường (Ariya Atthaṅgika Magga =AAM) đưa đến sự giải phóng tâm ra khỏi những phiền não trói buộc do liên hệ /dính mắc vào thân (rūpakāya & nāmakāya).
4. (i) Hành giả phải quan tâm đến sự quán chiếu về thân ngũ uẩn để không còn mê mờ và bị điều khiển một cách vô thức trong sự tìm cầu thoả mãn những tham muốn chủ quan và đòi hỏi không ngừng của thân. Chỉ khi ‘đứng qua một bên’- nghĩa là thấy nó một cách khách quan, hành giả mới có thể thấy biết (ñāṇa-dassanā) bằng tâm thanh tịnh và an nhiên trên đạo lộ (AAM). Đây chính là kinh nghiệm thiền quán (vidassanā = Vipassanā) có công năng tách rời thân và tâm (nāma-rūpa pariccheda ñāṇa).
Sau kinh nghiệm này, hành giả thay đổi thái độ sống, không còn là nô lệ cho cái mà thế gian vẫn cho là ‘ta”, hay “hình ảnh ta”. Trước khi giác ngộ, mọi người vẫn luôn tin tưởng và nô lệ cho một cái “ta” là thân thể hay nhiều hình ảnh về “cái ta”, tìm mọi cách thoả mãn cung phụng cho những đòi hỏi của nó, thậm chí đi đến chỗ quá ích kỷ và độc ác. Nay sau khi nghe pháp và quán chiếu một cách đúng đắn, hành giả giác ngộ rằng thân thể này không phải là ta, tâm mới thật là yếu tố quan trọng hơn cần được quan tâm. Tâm ý dẫn dắt hành động và tạo ra vật chất. Thấy biết như vậy, hành giả đi đến chỗ thanh tịnh hoá tâm hồn, khiến cho những ước muốn, mong cầu trong sạch và cao thượng hơn. [Nghe]
(ii) Từ đây hành giả không còn nô lệ cho thân và những đòi hỏi thỏa mãn giác quan mà trước đây do tà kiến (miccha diṭṭhi) dẫn dắt phàm nhân ngụp lặn trong phiền não khổ đau mà vẫn cho rằng đang sung sướng thoả mãn. Thấy biết đúng đắn khiến cho tâm được thanh lọc khỏi những bợn nhơ ích kỷ, sống từ hòa và trí tuệ hơn. Thay đổi thái độ sống là kết quả tất yếu đầu tiên của sự giác ngộ chân lý, điều này cũng có nghĩa là hành giả đang bước đi trên con đường dẫn đến hạnh phúc tối thượng. Trên con đường này nhận thức về bản thân (nhân sinh quan) và về thế giới (thế giới quan) đến từ trí tuệ thấy biết như chân như thực (yathābhūtaṃ), không phải là cái thấy biết đã bị méo mó qua lăng kính bản ngã và đảo lộn do phiền não (vipallasa = vikalpanā). Đây là ‘chánh kiến’ (sammādiṭṭhi) trong Đạo Phật. [Thấy]
(iii) Hành giả không ngừng thực hành và chiêm nghiệm từ kinh nghiệm tự thân, phát triển và lớn mạnh trong tầm nhìn mới. Càng lúc hành giả càng cố gắng và nhẫn nại hơn trong pháp hành, cùng lúc niềm tin đúng dắn vào Tam Bảo cũng được tăng trưởng và củng cố, xem đây là mục đích tối thượng, phương tiện quan trọng nhất để tránh những đau khổ bất trắc trong cuộc đời. [Tin]
(iv)Hành giả lúc này chỉ kết hợp với ‘bạn tốt”- đó chính là cái tâm sáng suốt thanh tịnh (Phật và Thánh tăng), làm cho “Phật thuyết pháp”- tức trí tuệ sinh khởi dẫn dắt và hướng dẫn hành giả đi đúng hướng trên đạo lộ giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Theo đúng tiến trình, hành giả gặt hái được những lợi ích tâm linh như chặt đứt các trói buộc (của định kiến và chấp thủ), thân tâm nhẹ nhàng thanh tịnh (do vắng bóng các loại phiền não) và kinh nghiệm hạnh phúc an lạc tuyệt vời (nếm vị giải thoát của Niết bàn) mà không còn phải nô lệ cho đối tượng bên ngoài do thôi thúc của những khát khao bên trong (phiền não nghiệp chướng). [Thực hành và nếm vị giải thoát]
Ngồi Thiền:
Bắt đầu thực hành bằng việc ngồi thiền:
1. Thời gian: vào lúc nào mà hành giả thấy thuận tiện nhất cho thời gian biểu trong ngày, ít nhất 2 lần, mỗi lần 1 giờ mỗi ngày. Thường hành thiền vào buổi sáng sớm khi mới thức dậy và buổi chiều tối khi các công việc trong ngày đã hoàn thành. Trong thời gian khác, hành giả vẫn luôn giữ chánh niệm trên thân-tâm mình (không vong thân theo ý tưởng).
2. Tư thế: Khi ngồi thiền nên ngồi kiết già hay bán già, tay phải đặt ngay ngắn trên lòng bàn tay trái, sát vào bụng dưới, hai ngón tay trỏ chạm nhẹ vào nhau. Lưng và cổ phải giữ thẳng mà không quá gò bó, mắt nhắm lại độ 75%. Miệng mím lại và hơi thở phải điều hoà tự nhiên (cũng có thể nhắm mắt hoàn toàn nếu không bị buồn ngủ).
3. Phương pháp: Đây là phương pháp thực hành kết hợp Tứ Niệm Xứ và ban rải Tâm Từ. Đối tượng quán niệm là từng phần trên cơ thể và những cảm thọ phát sinh từ cơ thể với sự nhận biết của tâm tỉnh giác, không tham đắm vào bất cứ điều kiện nào. Đây chính là nguyên tắc căn bản nhất của phương pháp hành thiền này- Không theo mà cũng không chống đối- hãy thấy như thấy, nghe như nghe, cảm nhận như cảm nhận, biết như biết – nghĩa là không để cho tình cảm hay ý nghĩ phán đoán chen vào.
Giới pháp:
Sau khi đã yên vị trên chiếu thiền, hành giả nên làm những chú nguyện như sau:
1. Sammā-sam Buddhaṃ saranaṃ gacchāmi, con thực hành nương theo sự sáng suốt của trí tuệ toàn giác (Đức Phật toàn giác).
2. Saddhammaṃ saranaṃ gacchāmi, con thực hành nương theo Chánh Pháp (= AAM = phương pháp loại bỏ tham – ưu trong đời)[i].
3. Ariya-sanghaṃ saranaṃ gacchāmi, con thực hành nương theo chư Thánh Tăng.
Lãnh vực quán niệm:
Khi mới bắt đầu, hành giả chia cơ thể làm 25 phần để dễ quán sát, bắt đầu từ: (1) vòng quanh đỉnh đầu, (2) trán, (3) mắt phải, (4) mũi, (5) mắt trái, (6) má phải , (7) má trái, (8) Miệng và vòng quanh miệng, (9) cằm, (10) cổ, (11) phần ngực trên, (12) phần ngực dưới (13) bụng trên, (14) giữa bụng, (15) bụng dưới, (16) phần mặt đùi phải, (17) đầu gối phải, (18) cẳng chân, (19) mặt dưới bàn chân phải, (20) lướt qua bề mặt các ngón chân phải, (21) bề mặt đùi trái, (22) đầu gối trái, (23) cẳng chân trái, (24) mặt dưới bàn chân trái, (25) ngón chân trái.
Trong khi “quét tâm’ trên mỗi bộ phận trên, hành giả đọc thầm trong tâm rằng: “Mong cho tất cả chúng sinh được khỏe mạnh, an lành và tự do.” Sau khi hết một vòng, hãy trở lại từ đầu, và tiếp tục như vậy. Nếu có cảm giác đau hay ngứa hay khó chịu sinh khởi ở phần nào đó, hãy hướng tâm từ đến đối tượng (thọ) vừa sinh khởi, ghi nhận sự có mặt đó mà không chống đối hay khuyến khích. Làm như vậy ba lần, nếu cảm giác đó không biến mất, hãy dời tâm chú ý đến bộ phận tiếp theo theo tiến trình. Sau khi đã thuần thục trong 25 phần này, mỗi giờ ngồi thiền “rà soát” 20 lần, như vậy hành giả có thể trải 500 lần tâm từ đến “các chúng sinh” (sabbe bhūta) trong “thế giới” (loka = sự kết hợp của thân và tâm).
Nếu có tiếng ồn hay sự phóng tâm, hãy ghi nhận nó rồi trở về với đối tượng thiền quán. Ví dụ khi hành giả đang ‘quán sát’ mắt trái, tâm bị phóng, hãy đưa tâm về và tiếp tục quán-rải tâm từ đến má phải, nếu tâm lại phóng, hãy đưa nó trở về với má trái, vv. Làm như vậy nhiều lần thì tâm sẽ thuần thục và ít phóng hơn. Nếu hành giả không còn nhớ mình phóng tâm khi đang ở đâu, hãy quay về và bắt đầu từ đỉnh đầu. Nếu khi đang hành thiền, hình ảnh của người nào đó hiện khởi trong tâm, hãy rải tâm từ đến ‘hình bóng’ đó như sau: “Mong người được khoẻ mạnh, an vui và tự do”. Làm như vậy tâm tham, sân, si không có dịp sinh khởi nữa. Cứ như vậy, mỗi giờ ngồi thiền là một giờ tích luỹ Ba la mật cho sự giác ngộ giải thoát. Và hành giả có thể tin chắc rằng mình đang bước từng bước vững vàng trên đạo lộ giải thoát tâm khỏi sự ràng buộc của những bợn nhơ phiền não do liên hệ và dính mắc vào thân.
Trong khi hành thiền, hành giả phải giữ thân thẳng thắn, không rung động hay uốn éo, không phát ra tiếng ồn. Nếu cảm giác đau hay ngứa quá không chịu nổi, hãy thay đổi tư thế hay gãi, nhưng khi làm những động tác trên phải có chánh niệm. Tốt nhất là cố gắng chịu đựng để cho tâm làm quen với sự nhẫn nại, không phản ứng tức thời. Khi thân ở tư thế bất động thì tâm cũng yên ổn hơn, từ sự yên ổn (passaddha) sẽ đi đến chỗ mát mẻ dễ chịu (piti), khi có niềm hạnh phúc tĩnh tại (sukha) này, tâm dễ dàng đi vào định (samādhi, ekaggata). Khi tâm có chánh định thì trí tuệ cũng sinh khởi, đó chính là cái tâm đã được giải phóng khỏi sự vướng mắc vào thân và những ngăn che (triền cái). Khi tâm thanh tịnh, nó trở nên một giác quan (cakkhu- con mắt tâm) rất bén nhạy, thấy biết như thực (yathābhūtaṃ) không qua khái niệm, biểu tượng hay định kiến. Giá trị này của tâm thanh tịnh cũng được gọi là A-ra-hăng (Arahant).
Cả bốn “niệm xứ”[ii] đều có mặt khi hành giả thực tập theo phương pháp này. Rà tâm trên thân là niệm thân; có cảm thọ sinh khởi, tâm liền biết cảm giác đó là gì (dễ chịu hay khó chịu, hay không dễ chịu cũng không khó chịu) đó là niệm thọ; sự nhận biết tâm đang ở trạng thái nào khi tiếp xúc với các đối tượng trên là niệm tâm; thấy biết sự sinh - trụ - diệt của các hiện tượng là niệm pháp.
Khi đã thuần thục trong 25 phần, hành giả có thể quán sát cơ thể ở những phần khác. Phía sau: (1) phía sau đỉnh đầu, (2) vùng đầu có tiểu não, (3) gáy, (4) lưng, (5) mông, (6) phần dưới của đùi phải, (7) phần sau của cẳng chân phải cho đến gót chân, (8) phần dưới đùi trái, (9) phần sau cẳng chân trái.
Bên phải cơ thể: (1) từ đỉnh đầu đến tai phải, (2) tai phải, (3) bên phải cổ, (4) vai phải, (5) vai đến khuỷ tay, (6) khuỷ tay đến bàn tay, (7) bàn tay và ngón tay, (8) sường bên phải, (9) đường viền bên phải của đùi (trong tư thế ngồi).
Bên trái: theo trình tự như bên phải.
Trong khi hành thiền, hành giả phải làm 2 việc cùng một lúc: thấy đối tượng thiền quán và bỏ qua nó ngay, không để tâm dính mắc vào nó. Sự cố ý tránh dính mắc vào đối tượng như thế này gọi là “thiền tịnh”. Quá trình thực tập ‘không dính mắc’ này cho thấy rất nhiều về bản chất của tâm, mối liên hệ đến thân, và sự kết hợp gọi là “ta”. Để có được sự thấu hiểu chân lý và bản chất của đời sống, hành giả phải phát triển đến một khả năng cao hơn, đó là tuệ giác (paññindriyā).
Lưu ý: Con số của những phần cơ thể mà hành giả rà tâm trên đó (với tác ý: mong cho tất cả chúng sinh được khoẻ mạnh - hạnh phúc - tự do) không quan trọng. Nguyên lý chính là đừng để tâm dính mắc vào đâu khi khiến nó ‘đi’ vòng quanh trên cơ thể. Đây là một “bài tập” để huấn luyện tâm đồng thời nó cũng có tác dụng bảo lưu năng lượng trên cơ thể. Nếu thực hành đúng đắn, hành giả sẽ thấy rất khoẻ khoắn, ít bị căng thẳng và có độ chú tâm cao trong mọi công việc hàng ngày.
Theo thời gian, tâm hành giả có được ‘thói quen’ mới: sáng suốt và cao thượng hơn (noble behavior). Đó chính là ‘thánh quả’ khi tâm không còn những phẩm chất xấu hay những động cơ thấp hèn, thay vì tâm đã có những ước muốn và động cơ cao thượng, cởi mở và ít ích kỷ hơn. Trong thuật ngữ Phật học, điều này gọi là sự đoạn trừ các kiết sử (samyojana) và lậu hoặc (āsava) theo thứ lớp. Khi hành giả phát nguyện và có những nỗ lực đúng đắn thì lộ trình giải thoát xẩy ra nhanh hơn, nhưng nếu hành giả nóng vội muốn ‘đạt được pháp’ thì rất có thể đi đến hoang tưởng. Do đó sự thực hành phải diễn ra một cách tự nhiên, đều đặn và với một động cơ duy nhất là “ra khỏi sinh tử- luân hồi, đến chân hạnh phúc tối thượng của Niết bàn”- sabbā dukkhā nissaggiya Nibbānassa sacchikiriyā.
Tâm giải thoát có năm năng lực đặc biệt là: (1) thấy (không qua mắt thịt), (2) nghe (không phải bằng tai thường), (3) tiếp cận với bất cứ pháp nào dù là thế gian hay xuất thế, (4) thấu hiểu một cách trọn vẹn về các pháp đã thấy, nghe hay tiếp xúc (cùng với hương vị), (5) công bố về sự thấu biết toàn vẹn đó như sự thực và hiện hữu. Khi cái tâm thanh tịnh này được dùng như một công cụ trong thiền quán, nó làm việc với các khả năng sẵn có trên. Năm khả năng này vốn có sẵn và luôn làm công việc của mình. Khi được kết hợp với nhau, chúng làm thành một ‘khối năng lực’ gọi là ‘tuệ căn’ (paññā) hay ‘giác quan thứ sáu’ (high powered faculty of mind). Mặc dù tuệ căn (tâm biết, ‘phật tính’) vốn có sẵn nhưng mới đầu hành giả không thể gặt hái hết các ‘quả vị’ này. Chỉ khi hành giả tiếp tục hành thiền và trau dồi trí tuệ, dần dần tụê căn mới hiển lộ đầy đủ. Sự thấu hiểu toàn vẹn (pariññā) tùy thuộc vào sự phát triển của tuệ căn.
Ở đâu có thiền tịnh, ở đó có tuệ căn; ở đâu có tuệ căn, nó hướng đến quán chỉ, nghĩa là đưa tâm ra khỏi sự vướng mắc vào thân (ngũ uẩn). Quả vị lớn nhất trong Đạo Phật là sự thấu hiểu trọn vẹn và tường tận về Tứ Diệu Đế bằng kinh nghiệm tự thân chứng ngộ trong khi hành thiền trên đạo lộ thực hành Bát thánh Đạo 

Đối với người phàm tục, cơ thể là thứ đáng quí nhất, mọi hy vọng, mơ ước và mong cầu đều liên hệ đến cơ thể, nhằm thoả mãn những khát khao, ham muốn và nhu cầu của cơ thể. Đó là tất cả những gì mà phàm nhân mong cầu và có được, và trong điều kiện đó, qua sách báo, thư từ hay nghe từ người khác về Niết bàn (phúc lạc tối thượng), thứ mà y chưa bao giờ thấy, nghe hay tận huởng trước đó, đối với y, đó chỉ là một giức mơ hay chỉ là một mong ước không thực tế. Y đang trong tình trạng tự lừa dối nặng nề về một ‘cái tôi’ hay ‘ta’ mà mọi nỗ lực của phàm nhân là nhằm thỏa mãn nó. Phần lớn thế gian nằm trong tình trạng này, dưới những tổ chức, nhóm, hội, đoàn thể tôn giáo hay lý tưởng khác nhau. Ở cấp độ thấp nhất, họ đồng hoá với cơ thể và tìm cách thoả mãn mọi nhu cầu, bản năng và tham muốn đòi hỏi của cơ thể. Khi họ cố gắng tìm một niềm vui khác, hay một lý tưởng, một tôn giáo đi nữa thì cũng chỉ là những ý tưởng hão huyền để họ bám víu vào, và một lần nữa đồng hoá với nhóm, hội, tổ chức, hay tôn giáo, chủ nghĩa… cũng chỉ là những vẽ vời nhằm thoả mãn nhu cầu tự lừa dối mà thôi. Trong đau khổ khốn cùng, trong tuyệt vọng tìm kiếm một hình mẫu để bám níu, họ tưởng tượng có một đấng sáng tạo, là Thượng Đế hay Phạm thiên, một năng lực siêu phàm đã tạo ra, duy trì và có thể phá huỷ hay hứa hẹn một hạnh phúc vĩnh hằng trên thiên đàng. Tất cả những chuyện này có thể xẩy ra đầy rẫy khắp nơi là vì chúng sinh không thấy tiến trình sinh tử của chính họ và họ cũng không biết đời sống thế gian đã hình thành và bị điều kiện hoá ra sao. Họ không có khả năng tư duy một cách có hệ thống, không biết chú tâm một cách đúng đắn và không đủ căn cơ để thấu hiểu các hiện tượng ‘chưa biết’. Vì vậy thế nhân hay kẻ phàm phu tục tử chỉ biết gán nó cho những năng lực vô hình, không thấy và không biết nhưng được tin là siêu phàm và mong cầu những năng lực đó cứu rỗi hay giúp đỡ họ có được hạnh phúc tối thượng. Đó là những tín ngưỡng và lý tưởng không bao giờ đưa hành giả đến chân lý hay sự thực.
Sự thực hành trên lộ trình Bát Thánh Đạo (AAM ) là để cho hành giả (vẫn còn là phàm nhân) thấu hiểu những gì thuộc về lĩnh vực chưa được biết này, thế gian hay xuất thế gian. Khi thực hành đúng pháp, hành giả sẽ tự mình thấy biết tất cả những bí mật của đời sống trong tiểu thế giới gọi là ‘ta’, và có được trí tuệ về sự hình thành và kết thúc của các hiện tượng đó. Từ sự thấu hiểu này chính là ánh sáng xua đi những niềm tin (tà vạy) và những lý tưởng (mù quáng). Trong khi thực hành, tách ra khỏi mọi đối tượng, một mặt hành giả hoàn toàn giải phóng tâm, đưa tâm đến trạng thái phúc lạc tối thượng, mặt khác hành giả thấu triệt toàn bộ cái gọi là “ta” –tiểu thế giới làm bằng tâm và vật (nāma-rūpa).
Trong khi thực hành, tâm thanh tịnh với năm năng lực siêu phàm (paññā) quán sát những đối tượng thuộc về sắc thân (phần vật chất) và cảm giác đau đớn khó chịu trên thân.
Tâm thanh tịnh thấu hiểu toàn bộ ‘pháp thế gian’ (=cơ thể) và bằng việc tách rời ra khỏi cơ thể, nó thấu hiểu ‘pháp xuất thế gian’. Cuối cùng, tâm thanh tịnh hay trí tuệ thấy ‘pháp thế gian’ là: (1) khổ, (2) tâm giải thoát thanh tịnh là phúc lạc tối thượng, (3) sự dính mắc vào ‘pháp thế gian’ là nguyên nhân của khổ, (4) lộ trình đưa đến giải thoát là thực hành Bát Thánh đạo.
Hành giả với tâm thanh tịnh thấy rằng ‘người’ không phải là sự sáng tạo của một năng lực siêu phàm nào, mà chính là (1) tâm tạo ra cái khối khổ đau gọi là ‘người’ hay ‘ta’ này; (2) cũng chính là tâm duy trì ‘con người’ bằng cách liên tục bám giữ vào thân; (3) tâm chính là ‘thủ phạm’ tàn hại cơ thể bằng từng chặp di chuyển từ sắc này tới sắc khác; (4) cũng chính tâm là tác nhân ‘cứu rỗi’ có công năng đưa con người đến phúc lạc tối thượng bằng việc tự thanh tịnh hoá trong tiến trình thực hành Bát Thánh Đạo. Do đó mỗi người chính là ‘thượng đế’ của chính mình: tự tạo, tự duy trì, tự phá, và cuối cùng là tự cứu rỗi để có được phúc lạc vĩnh hằng.
Khi tâm người ta chìm trong màn vô minh, nó không thể thấy, nghe, biết và thấu hiểu một số phạm trù của đời sống, người ta dễ bị lôi kéo vào những trò lừa dối của thế gian với niềm tin ngu xuẩn và lý tưởng mơ hồ mà kẻ ngu tuyên thuyết cho người mù! Người ta trở thành nô lệ bao lâu mà người ta còn tin tưởng vào kẻ khác. Nếu bạn đến để thấy và tự tin vào một và chỉ một mà thôi- đó chính là cái tâm của bạn có sẵn khả năng siêu phàm để giải phóng khổ đau và đạt đến phúc lạc tuyệt đỉnh. Đừng nghĩ rằng ai khác có thể giúp bạn. Những ai mà bạn trông chờ sự cứu rỗi thì bạn chưa bao giờ gặp, nghe hay nhìn thấy, làm sao bạn có thể trông mong sự giúp đỡ lớn hơn từ những năng lực vô hình? Thật vô nghĩa, đó chỉ là sự tự lừa dối chính mình bằng vô minh và sự ngu xuẩn thâm căn cố đế.
The Four Qualities of the First Realization (Sotapanna)
Bốn Phẩm chất của sự giác ngộ đầu tiên (nhập lưu thánh quả)
(According to Ven Lankapura Sariputtra of Pullonawa , Sri Lanka - A talk recorded on 16 th Nov. 2008)
1. Your unchallenging devotion to the practical observation of the Ariya Magga (the Buddha)- Sau khi giác ngộ, bạn có một niềm tin tuyệt đối vào con đường thánh thiện đã vạch ra bởi Đức Phật.
2. Your unchallenging devotion to the way in the practical exercise (eradication of attachment –the Dharma) - bạn có một niềm tin tuyệt đối vào phương pháp thực hành nhằm loại bỏ dính mắc tham đắm – Đây chính là chánh Pháp.
3. Your unchallenging devotion to the exercise you do in the practical Magga (the Sangha) -bạn có một niềm tin tuyệt đối vào pháp hành mà bạn đang làm – Tăng.
4. Your are unchallenging that you saw the Nibbāna by the supreme bliss you had for a moment while in the exercise – bạn chứng nghiệm chân lý tuyệt đối bằng sự nếm qua phúc lạc tối thượng của Niết bàn.
As concern to the Four Noble Truths- Trong mối liên hệ với Tứ Diệu Đế:
1. You saw the misery by your purified mind- Bạn đã thấy sự khổ bằng cái tâm thanh tịnh.
2. You saw the cause of suffering- Bạn đã thấy nguyên nhân của đau khổ.
3. Experience of Nibbāna bliss – Kinh nghiệm phúc lạc của Niết bàn.
4. Comprehended the exercise with the path leading to Nibbāna – Hiểu biết rõ ràng phương pháp và đạo lộ dẫn đến Niết bàn.
The exercise requires to see the Uppada, Thiti , bhanga (arising, existing and dissolving of Nāma-rūpa) – Cách thực hành này yêu cầu hành giả phải thấy được sự sinh khởi, tồn tại và đoạn diệt của Danh (cảm thọ, ý tưởng, ý chí, lưu trữ)- Sắc (thân).
1. Birth, sinh;
2. getting old, già;
3. diseases, bệnh;
4. associated with the unwanted object, gần người / vật không ưa;
5. dissociated with wanted, phải xa người / vật thân yêu;
6. unable to get what one wants, không thể đạt được điều mong mỏi;
7. in brief, the five aggregates of clinging, Tóm lại, vướng mắc trong thân ngũ uẩn;
8. Death – chết.
The first (birth) is uppada, the middle six phenomena are ṭhiti, and the last is bhanga. Đầu tiên là (khổ) sinh, tiếp đến là sáu loại (khổ) tồn tại, và cuối cùng là (khổ) hoại diệt.
Usually the ordinary person see only the symbols, not the reality. In practical exercise, you must see not the symbols, but yathābhūta, see vedanā as a secret, test it nature, not only know it by name. When the mind seen, heard and felt, not through the senses, it is yathābhūta.
Thông thường, phàm nhân chỉ thấy biểu tượng (thông qua khái niệm), không phải là sự thật (của hiện hữu). Trong bài tập thực tiễn (được áp dụng theo phương pháp này) bạn phải thấy như chân như thực, không qua biểu tượng (tên gọi và khái niệm), thấy cảm thọ như một bí mật (để bạn tiếp xúc với hiện hữu), nếm trải bản chất của nó, không chỉ biết nó qua tên gọi. Khi tâm (thanh tịnh) thấy, nghe và cảm nhận không qua các giác quan, đó chính là hiện hữu như pháp đang là (yathābhūtaṃ ñāṇa dassanaṃ).
Asaṅkhāra is the eradication and detachment, saṅkhāra is you make up the world by taṇhā, the “I” – Vô vi (không tạo tác) là sự loại trừ và không dính mắc, tạo tác chính là đang xây dựng thế giới thông qua bản ngã. Nibbāna is Asaṅkhārāgataṃ cittaṃ - Tâm đã đi đến chỗ vô vi, nghĩa là cái tâm thanh tịnh không tạo tác thông qua bản ngã.

1. Sammāsati: Chánh niệm = Thực hành Tứ Niệm xứ: Niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp theo phương pháp AAM: nên trú tâm ở đâu và nên nhìn đối tượng ra sao? Trú tâm trên thân, để cho cảm thọ ‘nói lên’ bí mật của nó, xem tâm phản ứng ra sao, nhận biết các hiện tượng trong tiến trình ‘sinh- trụ-diệt’ của pháp với thái độ trung dung không can dự.
2. Sammāvāyama: Chánh tinh tấn”:
a) Từ bỏ đồng hóa với năm giác quan – điều này cũng có nghĩa là ngăn ngừa điều ác sinh khởi.
b) Từ bỏ các đối tượng bên ngoài, không hướng tâm đến sắc, thanh, hương, vị, xúc – điều này cũng có nghĩa là bạn đang dẹp trừ các điều ác đã sinh khởi, làm vơi bớt những gì đã tích luỹ trong tàng thức (viññāṇa).
c) Tránh dính mắc vào các cảm thọ, ý tưởng, hình ảnh phát sinh trong khi ngồi thiền. hãy thấy biết những gì đang hiện hữu (trên thân hay trong tâm) rồi bỏ qua một bên; hãy giữ sự sạch sẽ và gọn gàng – đây chính là tạo điều kiện cho điều thiện phát sinh.
d) Nỗ lực thực hành như trên chính là làm cho điều thiện tăng trưởng và lớn mạnh.
3. Sammāsamādhi: Chánh định chính là đang hành động thực sự trên đạo lộ:
(a) Không giao tiếp với thế giới bên ngoài = vivicchehi kammehi.
(b) Không tiếp xúc với năm căn = vivicche akusaladhammehi.
(c) Hướng tâm đến đối tượng thiền quán mà không dính mắc vào nó = savitakka.
(d) Quán sát đối tượng mà không dính mắc vào nó = savicara.
(e) Rời bỏ đối tượng một cách không vương vấn = Vivekaja.
(f) Di chuyển sự quán sát không dính mắc vào đâu trên lộ trình = piti.
(g) Kinh nghiệm phúc lạc của sự giải phóng tâm = sukha.
Đây chính là định thứ nhất trong đạo lộ xuất thế gian (1st Lokuttara Jhāna).
Tâm được giải phóng khỏi đối tượng, thỏa thích trong sự tách rời, nếm hương vị giải thoát từng chút một = Định thứ hai trên lộ trình xuất thế gian (2nd Lokutara Jhāna).

[i] Tham (abhijja) là tâm ưu thích, tham đắm vào trong hiện tượng đang xảy ra như sắc, thanh, hương, vị, xúc, ý tưởng (pháp ý). Ưu (domanassa) là sự bực dọc, khó chịu với đối tượng. Tham là xu hướng theo, là sự dính mắc, trong lúc đó ưu là sự chống đối. “trong đời” (loka) ở đây có nghĩa là trên cái khung thân-tâm của hành giả (on the frame work of one’s mind –body = microcosmic).
[ii] Niệm xứ = Satipatthāna = kāyanupassanā, niệm thân, vedanānupassanā, niệm thọ, cittānupassanā, niệm tâm, dhammānupassanā, niệm pháp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét