|
Bài 1 Giới thiệu về Đạo Phật
Đức Phật:
Cuộc đời
và Giáo Pháp
|
Đạo
Phật là một triết lý sống và được thực hành ở Ấn độ từ 2560 năm trước, bắt
đầu từ sự kiện một ẩn sĩ có tên Gotama giác ngộ dưới cây Bồ Đề sau những
năm tu hành khổ hạnh cùng các Sa môn khác. Trước khi trở thành đạo sĩ, ngài
đã từng là một hoàng thái tử sống trong nhung lụa và được cung phụng đủ đầy
mọi dục lạc thế gian. Thái tử Tất Đạt Đa (Siddhattha – có nghĩa là ước nguyện
thành tựu) được nuôi dạy trong truyền thống thuộc giai cấp sát đế lợi
(Khattiya). Thời kỳ đó (550 BC) xã hội Ấn độ có bốn giai cấp chính với niềm
tin rằng giai cấp Bà la môn (Brahmin) sinh ra từ miệng Phạm Thiên (Brahma-
thần sáng tạo), Sát đế lợi sinh ra từ vai và ngực Phạm thiên, Vassha – sinh
ra từ bụng và bắp vế phạm thiên, và Sudra – sinh ra từ chân của thần sáng
tạo. Theo truyền thống Vệ đà (vedanta), mỗi gia cấp có những bổn phận và
trách nhiệm cũng như vị trí mặc định khác nhau trong xã hội.
Bà la môn được mặc
định là giai cấp cao nhất, họ là các thầy tế lễ, chuyên cố vấn quân sư về
đời sống tâm linh, cúng kiếng, đàn chủ nghi lễ hiến tế cũng như đạo đức,
giáo dục. Giai cấp Sát đế lợi là từng lớp thống trị, tướng sĩ, vua chúa và
lãnh chúa. Từng lớp Vassa là các thương gia, chủ đất và nhà ngân hàng, các
gia chủ- họ là những người chủ động đưa văn hóa Ấn giáo cùng với việc trao
đổi hàng hóa đến những quốc gia, lãnh thổ khác nhau ở Châu Á. Ba giai cấp
trên được học hành, giáo dục và nuôi dưỡng khá tốt. Họ được tham dự vào các
hoạt động văn hóa, tâm linh, chính trị và giáo dục của cộng đồng và quốc
gia. Giai cấp Thủ đà la là từng lớp thấp nhất – họ là những người phục vụ
và làm hết các công việc nặng nhọc, bẩn thỉu trong xã hội mà không có cơ
hội để học hành và không được tham dự các hoạt động của những giai cấp
trên.
Sinh
ra trong gia tộc Gotama, dòng họ Sakya tại thành Kapilavatthu – một vương
quốc nhỏ dưới chân dãy Hy mã lạp sơn (Himalayas) hùng vĩ, Siddhattha là vị
hoàng tử được mong đợi nhiều năm vì thân phụ người – vua Suddhodana và vợ -
hoàng hậu Maya là cặp vợ chồng hiếm muộn. Maya là một bậc mẫu nghi dịu hiền
và ngoan đạo. Chuyện kể rằng hoàng hậu vẫn thường giữ trai giới vào các
ngày rằm và mồng một mỗi tháng. Một đêm như vậy bà có giức mơ kỳ lạ: thấy
mình được các thiên nữ từ cung trời Đâu Suất (Tusita) đưa đến một cái hồ
thanh tịnh trên đỉnh Hy mã lạp sơn tắm rửa và nghỉ ngơi. Khi bà thiếp ngủ
thì có con voi trắng lơ lửng bay đến, dùng cái vòi mềm dịu của nó chạm nhẹ
vào bụng bà. Sau đó bà hoài thai và hoàng tử của chúng ta được sinh ra sau
10 tháng thai nghén. Khi mới sinh ra, các đạo sĩ xem tướng mạo và giờ sinh
đối chiếu với các chòm sao xuất hiện trên bầu trời, họ tiên đoán Thái tử sẽ
trở thành bậc lãnh đạo kiệt xuất. Nếu tại vị, người này sẽ là bậc Chuyển
Luân Thánh Vương (Cakkavala Rāja), nếu xuất gia làm đạo sĩ, người sẽ giác
ngộ thành Phật (Buddha).
Được nuôi dưỡng và
giáo dục để trở thành bậc quân vương theo truyền thống Sát đế lỵ trong chế
độ quân chủ, Siddhattha là một hoàng tử xuất sắc với các tài nghệ bắn cung,
cưỡi ngựa, điều khiển các bộ quân, vv. Nhưng vị hoàng tử trẻ cũng được dạy
dỗ để tinh thông các kinh sách Vệ đà (Vedanta) và các trường phái triết học
và đạo học như Yoga, Nyaya và Mimansa.
Trong môi trường văn
hóa xã hội và chính trị như vậy, vị Phật tương lai đã ra đời, trưởng thành
và có vợ con. Là một ông hoàng, người được bao vây bởi những vật chất đắt
tiền và có nhiều phụ nữ xinh đẹp hầu hạ nhưng Sĩ Đạt Ta vẫn thường suy tư
mặc tưởng. Vua cha và quần thần sợ ông sẽ xuất gia nên càng bao vây Thái tử
bởi nhiều dục lạc thế gian hơn – như ba cung điện cho ba mùa trong
năm, hồ sen và nhiều cung nữ - vũ nữ
xinh đẹp; bạn bầu với các hoàng tử trẻ tuổi cùng giai cấp Sát đế lợi, vv.
Mặc dù được đoanh vây bởi đời sống hưởng thụ vương giả, Siddhattha lại
không hứng thú mấy với những trò chơi cảu người trẻ tuổi. Chàng trầm tư và
muốn tìm hiểu tại sao con người lại bị chi phối bởi sinh già bệnh chết, và
chàng cũng được biết đời sống bên ngoài hoàng cung không đẹp và đủ đầy –
phần lớn dân chúng sống cuộc đời đơn sơ và khổ sở, thiếu thốn. Trong một
cuộc du ngoạn ra ngoài cửa thành của mình, thái tử gặp một thầy tu trogn
mảnh y vàng ung dung tự tại đi thiền hành với những bước chân nhẹ nhàng
thanh thản lạ. Hình ảnh đẹp này nhắc nhở Bồ tát – người có tâm giác ngộ và
trên lộ trình trở thành Phật – về một cách sống khác, về con đường tâm
linh.
Sau bao đêm trầm tư
mặc tưởng, Bồ tát đã vượt thành xuất gia và trở thành đạo sĩ như lời tiên
đoán của đạo sĩ Asita khi thái tử ra đời. Ngài đến dòng sông Anoma, băng
rừng vượt suối đi về hướng Magantha – một vương quốc rộng lớn hơn – và cũng
là nơi hội tụ nhiều trường phái tu thiền và thực hành đời sống khổ hạnh của
các Sa môn (Samana). Bồ tát Gotama đến gặp các bậc thầy hướng dẫn thiền định nổi tiếng lúc
bấy giờ như Alāra Kālāma và tu tập với vị này cùng hội chúng của
họ, Sau một thời gian, ngài đã vào được các trạng thái thiền định tương
đương với thầy Alāra Kālāma
– đỉnh cao của phương pháp này là Vô Sở Hữu xứ thiền. Được vị này mời ngồi
ngang hàng với thầy để cũng lãnh đạo hội chúng tu tập ở đây, song Sa môn
Gotama đã từ chối và ra đi để tìm cầu một pháp tu cao thượng hơn.
Lại
lên đường, và vị thầy tiếp theo là Uddaka Ramaputta. Là một hành giả nghiêm túc và có trí
tuệ, không bao lâu Sa môn Gotama lại thông suốt pháp hành của vị thầy này
mà đỉnh cao của pháp thiền dưới sự hướng dẫn của vị này là Phi tưởng phi
phi tưởng xứ. lại được thầy mời ngồi ngang hàng để cũng hướng dẫn đồ chúng,
nhưng Sa môn Gotama tiếp tục từ chối và quyết tâm tìm con đường riêng của
mình.(Ref. Ariyapariyesana sutta – MN 26. Kinh Thánh Cầu https://suttacentral.net/vn/mn26).
Sau khi rời hội chúng này, Gotama đã thử các kiểu khổ hạnh khác nhau, ngay
cả các kiểu khổ hạnh khó thực hành nhất ông cũng đã từng tu theo. Trong
cuộc tu khổ hạnh này, ông có thêm năm người bạn đồng tu để sách tấn nhau
trên đường đạo. Nhưng rồi ông nhận ra việc ép xác, nhịn ăn, không tắm rửa
và chỉ ngồi thiền một cách khiên cưỡng không đem đến an lạc trong tâm hồn.
Ông đã chủ động từ bỏ pháp tu này, một mình đi đến dòng sông Neranjana gần
một ngôi làng trù phú để tĩnh tu.
Nơi đây ông trút bỏ xiêm y rách
nát, xuống tắm dưới dòng sông xanh mát, rồi chọn một gốc cây cổ thụ nơi
khuất vắng bóng người để ngồi thiền. Vị sa môn trẻ tuổi dần dần hồi phục
lại sức khỏe và bắt đầu tỏa sáng sau những giờ thiền định thâm sâu. Tưởng
lầm ông là vị thọ thần, một nàng thôn nữ tên Sujata – con gái của vị trưởng
làng đã dâng cúng ông một ít cháo sữa trong cái bát vàng. Sa môn Gotama thọ
nhận một cách nghiêm trang, rồi vứt bát xuống dòng sông trước mặt với lời
nguyền: “Nếu ta có đủ cơ duyên giác ngộ ngày hôm nay, xin cho cái bát này
trôi ngược dòng”. Và thật kỳ diệu, cái bát đã trôi ngược dòng – điềm báo
làm tăng thêm ý chí giác ngộ giải thoát cho ẩn sĩ Gotama.
Sau khi chiến thắng các đội binh ma, đạt đến và vững
vàng trong các từng định thâm sâu, Đức Phật chứng được Ba Minh: 1. Túc mạng
minh là nhớ được vô số các đời sống quá khứ; 2. Thiên nhãn Minh là trí tuệ
thấy được sự sống chết cảu chúng sinh theo duyên nghiệp trong các cảnh giới
khác nhau; và 3. Lậu tận Minh là trí tuệ cắt đứt tất cả các phiền não
nghiệp chướng khiến cúng sinh luân lưu trong sinh tử luân hồi. Vào lúc bình
minh của ngày rằm trăng tròn tháng Vesakh, một vị Phật đã ra đời – đem ánh
sáng của giác ngộ giải thoát đến thế gian này. Sự kiện nổi bật của ngày hôm đó khiến ba
ngàn thế giới đều chấn động, ngay cả chỗ đen tối nhất của vũ trụ và địa
ngục, nơi ánh sáng chưa bao giờ xuyên thấu, vào lúc đó lần đầu tiên các chúng
sinh trong địa ngục được thấy nhau , nhìn thấy ánh sáng và vơi bớt khổ sầu.
Nơi Đức Phật giác
ngộ nay được gọi là bồ Đề Đạo tràng (Boudgaya). Sau khi đại giác ngộ, Đức
Phật đã an vui quả giải thoát dưới cội bồ đề bảy tuần. Sau đó ngài được một
vị Đại phạm thiên tên Sahampati thỉnh mời thuyết pháp vì lòng bi mẫn với
thế gian. Sau những lưỡng lự ban đầu, Đức Phật đã quyết định thuyết giảng
giáo pháp đến những người bạn đồng tu trước đây. Khi hướng tâm đến các đại
sa môn đã từng là thầy mình trên hành trình tìm đạo, ngài thấy họ không còn
trên thế gian nữa. Cảm thấy tiếc cho họ đã bỏ lỡ mất một cơ hội triệu năm
có một. Ngài lại hướng tâm đến các vị bạn đạo cùng tu hành khổ hạnh với
ngài ở vườn Nai – tp Ba la nại (Isipatana migādaye). Bằng trí tuệ thông
suốt tâm thức của người khác, Phật thấy là họ có những khả năng để tiếp thu
phương cách tu hành mới dưới sự hướng dẫn của ngài.
Đức
Phật đã đi về hướng Barānasi (Sarnath), đến vườn nai và thuyết pháp cho năm
vị tu khổ hạnh là ngài Kiều Trần Như Kodanno, Vapsa, Mahanama, Assaji . Địa
danh Sarnath được
chiết tự từ ngôn ngữ Sanskrit - Sāranganātha,[5] có nghĩa là "chúa tể của loài
nai”, và câu chuyện làm nền cho địa danh này bắt đầu từ một kiếp quá khứ,
khi đó Bồ tát (Bodhisattva)
tái sinh làm một con nai chúa. Con nai chúa này đã vì lòng từ bi mà đổi
mạng sống của mình để cứu sống một con nai cái trong đàn, lúc đó đang mang
thai – khỏi bị giết hại khi đến lượt nó phải lên đàn hiến tế. Quá cảm động vì hành động
cao thượng của con vật có lương tri, vị vua của xứ Ba la nại đã cho làm một
khu vườn nơi cả đàn nai được tự do đi lại, ăn uống và sinh sôi nẩy nở dưới
sự bảo trợ của nhà vua. Khu bảo tồn này có tên là Isipatana Migadāya – công viên Độc giác nơi những con
nai được tha mạng. Sau
ba tháng tu học với ngài, họ đã trở thành các vị A la hán đệ tử đầu tiên
của Đức Phật. Ngài tiếp tục hóa độ những người khác, trong đó có Yassa –
con trai của một gia đình danh giá trong vùng và 30 người bạn của người
này.
Sau đó ngài đi về
hướng Uruvella - Gaya và độ cho 1000 vị tu sĩ thờ thần lửa bắt đầu với Đại
Ca diếp – người lãnh đạo những vị ẩn sĩ bện tóc thờ thần lửa. Khi đến gặp
các vị tu sĩ thờ thần lửa này, lần đầu tiên Đức phật đã sử dụng thần thông
phun lửa để chế phục con rắn thần ẩn nấp trong nhà thờ lửa của các đạo sĩ
bện tóc. Trải qua vài tuần thi triển các loại thần thông như đi trên mặt
nước, vv Đấng Chiến Thắng đã lấy được sự tín nhiệm của nhóm đạo sĩ này. Khi
họ đã khâm phục và lắng tai nghe, Bậc Đạo Sư đã thuyết giảng bài kinh Lửa
Cháy nổi tiếng. Nhóm đạo sĩ thờ lửa đứng đầu là Uruvell Mahā Kassapa đã
chứng đắc pháp nhãn. (Ref. Đại Phẩm Vin. III)
Như vậy chỉ trong
vòng độ một năm sau khi giác ngộ, Đức Phật đã có hàng ngàn người đi theo
học hỏi và thực hành đời sống dưới sự hướng dẫn của ngài. (Ref. Đại Phẩm,
Luật tạng, Vin III)
Các đệ tử của Phật
được chia làm bốn nhóm: 1.Tỳ khưu là những vị nam xuất gia, 2. Tỳ khưu ni
là những người phụ nữ xuất gia và 3. nam cư sĩ & 4. nữ cư sĩ là những người đã tuyên
bố quy y theo Phật (Buddha) Pháp (Dhamma) Tăng (Sangha) gọi chung là Tam
bảo (Tisarana) và giữ gìn 5 giới cấm.
Có điều gì đặc biệt
trong Đạo Phật mà khiến cho người ta từ bỏ niềm tin và cách sống cũ để đi
theo một trào lưu mới? Trong bài thuyết giảng đầu tiên cho 5 vị Kiều Trần
Như, Đức Phật đã tuyên bố con đường Trung Đạo (majjhimapaṭipadā) tránh
hai cực đoan là ép xác khổ hạnh và thụ hưởng dục lạc vô độ - vốn là những
pháp thực hành phổ biến đương thời. Hai cách sống trái ngược này bắt nguồn
từ những nhận thức thuộc các trường phía triết lý cực đoan về nhân sinh và
vũ trụ. Đó là thường kiến – niềm tin rằng có những linh hồn bất biến đi đầu
thai từ kiếp này đến kiếp khác. Các linh hồn này xuất phát từ Phạm thiên
(Brahma) hay Thượng đế (Isāra), có nguồn gốc cao quí nhưng đã đánh mất bản
chất cao quí thánh thiện khi bị giam hãm trong thân xác phàm tình và chịu
sự chi phối của cảm xúc – dục lạc- khổ đau. Theo trường phái này thì cách
tốt nhất để giải phóng linh hồn là ép xác khổ hạnh bằng những pháp tu cực
đoan, khó làm, khiến thân xác phải chịu đựng đau khổ như nhịn ăn, không mặc
đồ, tắm trong nước lạnh băng giá, nằm trên bàn chông, đứng trên một chân,
vv.
Một cực đoan khác là
sống phóng túng vô độ của những người có niềm tin rằng chết là hết, thân
xác và linh hồn là một. Khi thân mạng kết thúc thì phần hồn cũng biến mất –
đây là trường phái đoạn kiến. Vì họ không tin có kiếp trước kiếp sau nên họ
cũng không sợ nhân quả ba đời. Họ sẵn sàng làm bất cứ điều gì để đạt được
ham muốn hay tham giận sân si của mình, để đạt được thảo mãn dục vọng trong
thoáng chốc mà không nghĩ đến hậu quả hay trách nhiệm lâu dài.
Con đường mà ngài
chỉ ra được gọi là “con đường cổ xưa được phát hiện lại” (SA 287) như vậy ngài là người phát hiện ra con đường
đã từng đi bởi các đại ẩn sĩ thời quá khứ. Theo một cách nói khác, ngài gọi
nó là con đường Bát Chánh Đạo. Bắt đầu từ thấy biết đúng đắn (chánh kiến), Suy
tư không lầm lạc (chánh tư duy) , nói năng có đạo lý (Chánh ngữ), làm việc
không lỗi lầm (Chánh nghiệp), sinh sống không tàn hại (Chánh mạng), nỗ lực
đúng hướng (Chánh tinh tấn), nhớ nghĩ đúng lúc (Chánh niệm), tập trung
thiện xảo (Chánh định). Cũng từ đó Đạo Phật được gọi là một cách sống, một
con đường chuyển hoá thông qua giáo dục. Phong cách sống của Đạo Phật được
xây dựng trên nền tảng của sự hiểu biết và thông cảm, hay nói cách khác, đó
là đạo của
từ bi và trí tuệ.
Trong tiếng Phạn, giác ngộ là Bodhi
– tiếng Việt hay dịch âm là Bồ -đề. Khi làm một việc gì đó tốt đẹp và lớn
lao vì lợi ích và hạnh phúc cho người khác, chúng ta nói đó là phát Tâm Bồ
đề (Bodhi-citta). Vậy giác ngộ bắt đầu từ một cái tâm biết nghĩ và thấy xa
rộng hơn là bị chi phối hoàn toàn bởi các nhu cầu mang tính bản năng.
Trước khi giác ngộ, người ta được hướng dẫn để
tin vào nhân quả: gieo nhân nào thì gặt quả đó. Nhân ác thì cho quả khổ,
nhân thiện thì cho quả lành và an vui. Từ niềm tin đến thấy biết tiến trình
nhân quả trong các hành động (ba nghiệp). Khi thấy được tiến trình rồi,
người ta sẽ thận trọng hơn trong các
hành động thân khẩu ý của mình để tránh gây nghiệp.
Thứ nhất Đạo Phật đặt ra những giới hạn cho
hành động của con người để họ tránh được việc gieo ác nghiệp, không làm các
hành động bất thiện khiến mình và người gặp khổ đau bất mãn trong đời sống.
Sabbe pāpassa akārānaṃ - chư ác mạc
tác – đừng làm tất cả các điều ác. Điều này được thực hiện qua việc
người mới quy y Phật xin nguyện giữ năm giới cấm, và lấy năm điều răn đó
làm căn bản đạo đức trọn đời.
Thứ hai Đạo Phật khuyến khích người ta làm
thiện, tích đức và tu thân: Kusalassa
Upasampada – hãy thành tựu những thiện nghiệp là lời khuyên của chư Phật.
Thập thiện hay 10 hành động để tạo công đức được ca ngợi trong các bài
thuyết giảng về giáo lý Nhà Phật. Bao gồm 1. bố thí, hay cho đi một cách
không vị lợi; 2. Ái ngữ -lời nói ôn hòa dễ nghe, đem lại lợi ích cho người;
3. Đời sống đức hạnh; 4. Phục vụ; 5. Công bằng; 6. Hoan hỷ khi người khác
làm điều thiện;7. nghe pháp và học
hỏi không ngừng; 8. Chia sẻ pháp; 9. có chánh kiến; 10 . không tham lam vô
độ.
Thứ ba là thanh tịnh tâm ý (Sacitta
pariyodapanam). Tức là đừng để cho tham sân si, mạn nghi, tà kiến, ghanh
tỵ, bỏn xẻn, nghi ngờ, chán nản, vv làm cho tâm hồn ngập ngụa trong rác độc
hại và ướt sũng trong bùn lầy của sự lười biếng chán chường cùng với các
trò giải trí vô bổ. Ở giai đoạn này, người ta biết sống tiết chế và an vui
trong đời sống tịnh cư, không tham lam ham muốn nhiều, không có nhu cầu
chứng tỏ đẳng cấp hơn thua nên không cần cạnh tranh – ghành giật. Họ tập sống
thân viễn ly khỏi những ràng buộc vật chất bên ngoài, và tâm viễn ly với
những phiền não từ bên trong phát khởi. Đó là các giai đoạn tránh ác, tích
thiện, vun bồi gốc đức hạnh của người có Đạo.
Tuy nhiên, khi đã chín chắn và trưởng thành,
người ta sẽ giác ngộ ra rằng cuộc đời là vô thường. cho dù mình cố gắng
sống tốt như thế nào thì cũng có nhiều khi cuộc đời bất như ý. Cho dù con
người có không ngoan và giỏi tính toán đến đâu thì nhiều khi vẫn gặp thất
bại và khổ đau. Họ bắt đầu giác ngộ ra đời vốn vậy, không chiều theo ý ai
và khổ đau là điều không thể tránh được. Nhưng người biết suy xét thì không
dừng lại ở kết luận đời là bể khổ, rồi trở nên bi quan chán nản hay hận đời
dẫn đến hại mình hại người. Người có trí tuệ sẽ nhìn sâu hơn, thấy ra
nguyên nhân của khổ đau và bất toại nguyện trong đời sống: đó là tâm tham ái,
hay mong cầu những điều không thực tế, oán hận vì đời
sống không theo ý mình, si mê đi theo bản năng mà không thấy ra các
qui luật trong đời sống.
Khi thấy ra các sai lầm và
quyết tâm điều chỉnh hành vi để có đời sống chuẩn mực và lành mạnh hơn, đó
là một sự giác ngộ. Giác ngộ khiến cho người
ta không lặp lại sai lầm cũ, không chạy trốn sự thật mà biết đối diện để
giải quyết và sống tốt hơn với những gì mà mình đang có. Như vậy giác ngộ thường
đến từ những trải nghiệm trong cuộc sống, rồi từ đó học ra những bài học
cần phải học để trưởng thành, chín chắn hơn trong cách mà chúng ta cảm
nhận, tương tác và cư xử với chính mình hay với người khác, với thế giới
xung quanh mình.
Vậy giác ngộ là một tiến
trình học hỏi, trải nghiệm và suy tư đúng phương pháp – một qui trình tiệm
tiến đến chân lý hay nó là một sự bừng tỉnh đột ngột, tức thì sau cú đánh,
tiếng vỗ tay hay tiếng hét nào đó? Trong thiền tông người ta hay nói đến
cái đốn ngộ tức thời này, và một số người khăng khăng cho rằng người có
chủng tử giác ngộ thì khi đúng cơ duyên sẽ giác ngộ ngay lập tức. Ví dụ như
Lục tổ Huệ Năng nghe tụng kinh Kim Cương đến câu “ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ
tâm” thì ngộ ra chân lý ngay. Sau đó
ông cũng giác ngộ người khác bằng những cách tương tự,như khi ông nói với
sư huynh Thần Tú: “không nghĩ thiện, không nghĩ ác đâu là bản lai diện mục
của thượng toạ Minh?”; hay khi ông giác tỉnh các chú tiểu đang bàn luận về
vấn đề phướn động hay gió động, chỉ ra cái tâm của các chú đang động, vv.
Trong Kinh điển nguyên thủy,
giác ngộ thường được đề cập đến như là một quá trình tu tập mang tính tiệm
tiến – được ví như bờ biển đi xuống thoai thoải và sâu dần, không phải là
cú gập đột ngột (AN 7). Tuy nhiên cũng có khi người đi tìm chân lý, miệt
mài sau nhiều năm, họ gặp được bậc minh sư – người có thể khai ngộ cho họ
ngay trong sát na, như câu chuyện của ngài Sariputta hay của nữ đạo sĩ tóc
quăn (Bhadda Kundalakesa).
Giác ngộ cũng như tỉnh mộng
– thức tỉnh sau một giấc mơ và biết rằng những gì mình vừa thấy, vừa cảm
nhận và kinh qua thật ra chỉ là một giấc mơ. Khi thấy những điều không có
thực nhưng vì không biết được đâu là thực, đâu là hư nên mình đã bám níu và
buộc ràng vào chúng khiến hạnh phúc, đau khổ, lo lắng và bất an triền miên
– thì khi đó mình bắt đầu giác ngộ.
Giác ngộ là cần thiết cho
con người vì nếu không giác ngộ họ sẽ triền miên đi trong sinh tử luân hồi,
ngụp lặn và cười khóc trong hạnh phúc và khổ đau mà phần lớn là không có
thực. Khi chưa giác ngộ, con người sống với phần bản năng sinh tồn, hay
phần “con” nhiều hơn phần “người”. Chưa giác ngộ là chưa tiến hóa về mặt
tâm thức. Chưa giác ngộ là vẫn còn say sưa tạo nghiệp , gây đau khổ cho
mình cho người mà lại tưởng nhầm là mình đang đi tìm hạnh phúc thỏa mãn nào
đó.
Đức Phật đã xuất hiện trên
thế gian và giảng dạy giáo pháp mà ngài đã tự thân chứng ngộ chỉ với một
mục đích duy nhất là giác ngộ chúng sinh ra khỏi vô minh và giải thoát họ
khỏi trói buộc của ái dục. Ngài đã chỉ ra con đường để ai có mắt thì đi đến
và tự thân chứng ngộ như giáo pháp đã được giảng truyền. Sau khi Đức Phật
rời bỏ thế gian nhập diệt, giáo pháp vẫn còn để hướng dẫn chúng ta. Các
hàng đệ tử của Bậc Giác ngộ vẫn tiếp tục trên con đường này. Trải qua hơn
2600 năm, tăng chúng (Sangha) đã tỏa đi muôn phương, đem theo giáo lý giác
ngộ giải thoát này truyền bá đến nhiều xứ sở và các nền văn hóa khác nhau.
Khi giáo pháp của Đức Phật truyền bá đến một miền quê hay quốc độ nào, tùy
theo trình độ nhận thức và tập tục, tín ngưỡng cũng như văn hóa của họ mà
giáo pháp chân truyền được giải thích và trình bày theo những cách khác
nhau để phù hợp và dễ hiểu, dễ thực hành
hơn cho dân chúng sở tại.
Ngày nay Đạo Phật đã có mặt
khắp năm châu bốn biển, không chỉ giới hạn ở một số quốc gia Á Châu nữa.
Tín đồ và những người thực hành theo lời Phật dạy vẫn tăng trưởng. Đạo Phật
không phải là một tín ngưỡng hay tôn giáo cổ xưa. Đạo Phật vẫn sống động và
đem đến bình an cho tâm hồn, làm giàu thêm cho cuộc đời, và đóng góp vào
hạnh phúc an lạc cho thế giới này.
Theo một thống kê gần đây,
Đạo Phật đang có mặt trên 14 quốc gia với số người thực hành là trên 50%
dân số, trong đó có bảy quốc gia đân số theo Đạo Phật lên tới trên 80%. Đạo
Phật cũng được thực hành rải rác ở nhiều quốc gia khác như sau. Những quốc gia đó là:
·
Cambodia 97%
·
Japan 96%
·
Thailand 95%
·
Taiwan 93%
·
Mongolia 93%
·
Myanmar 90%
·
Hong Kong 90%
·
Bhutan 84%
·
Vietnam 75%
·
Sri Lanka 70%
·
Laos 67%
·
Tibet 65% [5]
·
Singapore 51%
·
South Korea 50%
Ref: http://buddhaweekly.com/buddhism-now-2nd-largest-spiritual-path-1-6-billion-22-worlds-population-according-recent-studies/
Hiện tại Đạo phật có ba tông
phái chính là:
- Theravada
– Trưởng Lão Bộ hay còn gọi là Đạo Phật Nam Truyền phổ biến ở Sri
Lanka, Thái Lan, Myanmar, Cambodia, Lao và một phần của Việt nam.

- Mahayana:
Đạo Phật Phát Triển/Đại Thừa hay Bắc Truyền phổ biến ở China, Korea,
Japan, Taiwan và Việt nam.
 
- Tantrayana:
Đạo Phật Kim Cang thừa hay còn gọi là Mật Tông phổ biến ở các quốc
gia như Tây Tạng (Tibet), Mongolia, Bhutan và một phần của Nepal.
 
Hiện nay cả ba tông phái
chính của Phật giáo đã có mặt và phát triển mạnh ở các nước Tây phương như
ở Anh (England), Pháp (France), Mỹ (US) và Úc Châu (Australia & New
Zeland).
Theo một thống kê khác, hiện
số người theo Đạo Phật lên đến khoảng 22% dân số thế giới. Phân chia theo
quốc độ như sau:
BUDDHIST POPULATION OF SELECTED COUNTRIES
Buddhists % of
Total Population
1) China
—————– 1 (tỷ)
billion (80%)(1,070,893,447Buddhists)
2) Japan
—————– 122 million
(96%)
3) Vietnam
–———— 70
million (75%)
4) Thailand
–———– 64
million
(95%)
5) Myanmar
———–– 49.7
million (90%)
6) India
–—————— 36.6 million
(03%)
7) South
Korea –——- 24.5
million (50%)
8) Taiwan
—————-
21.7million (93%)
9) Sri Lanka
———––- 15.2 million (70%)
10) Cambodia
–———– 14.7 million (97%)
11) Hong
Kong ———–– 6.4 million (90%)
12) USA
–——————- 6
million
(02%)
13) Malaysia
————–– 6.2 million
(21%)
14) Laos
——————–– 5
million
(67%)
15) Indonesia
————–- 4.3 million (01.7%)
16) North
Korea –———- 3.4 million (14%)
17) Nepal
–—————— 3.3 million
(11.5%)
18) Mongolia
————— 3
million
(93%)
19) Singapore
————–- 2.8 million (51%)
20) Philippines
————– 2 million
(01.5%)
21) Russia
—————–– 2
million
(01.4%)
22) Canada
–————— 1.2 million
(03.5%)
23) Bangladesh
–———- 1.1 million (00.7%)
24) France
————––— 1 million
(01.5%)
25) Brazil
——————– 1
million
(0.5%)
26) Germany
—————–
905,657
(01%)
27) UK
–———————– 760,747
(01%)
28) Bhutan
————––—
609,249
(84%)
29) Brunei
——————-–
58,498 (17%)
(Near Malaysia)
30) Macau
–——————
466,402
(75%) *
31) Sikkim
—————-–-
171,000
(28%) **
32) Ladakh
————
Ghi Chú: Ở một số quốc
gia theo Đạo Phật phát triển như Trung Quốc, Việt Nam, Hồng Kông và Mông
cổ, số tín đồ theo Đạo Phật thực ra thì họ cũng bị ảnh hưởng rất lớn bởi
tín ngưỡng dân gian bản địa và các triết lý của Đạo Lão và Khổng giáo –
không thuần Phật giáo. Trong khi đó, những người có cảm hứng sống theo
triết lý Phật Giáo ở Tây phương thì nhiều trong số họ lại nói họ không theo
tôn giáo nào, vì họ cho rằng Đạo Phật không phải là một tôn giáo. Họ thích
Phật giáo và sống theo một số tôn chỉ như hòa bình – bất bạo động và từ
bi vô ngã của Đạo Phật kết hợp với sự
hiểu biết và cách diễn đạt khoa học & tâm lý học hiện đại.
Đức Phật là một vĩ nhân
Đức Phật là một vĩ nhân có một không hai đã
sinh ra trong thế giới này. Ngài sống giữa đời thường như chúng ta, nhưng
có sự khác biệt là ngài không bị ô nhiễm bởi những khiếm khuyết của con
người. Nhân cách của một vị Phật đã được phát triển tới mức hoàn hảo nhờ sự
trau dồi trí tuệ đồng thời với sự phát triển tâm từ bi. Nhờ những phẩm chất
đó, phật là bậc được tôn kính và ngưỡng mộ bởi rất nhiều người. Vào thời
Phật còn sống, rất nhiều những bậc vua chúa hùng mạnh đã đảnh lễ dưới chân
ngài. Đã từng có những hoàng tử, quí tộc và thương gia giàu có cúng dường
đất đai và xây dựng chùa chiền, tịnh thất cúng dường Đức Phật và các hàng
đệ tử xuất gia của ngài. Ngày nay các hàng tín đồ Phật tử khắp nơi vẫn cùng
nhau hỗ trợ và làm phước như xây dựng chùa, hộ độ chư Tăng- Ni tu học trong
chánh pháp.
- Bức tranh trên cho chúng ta thấy cách chào
hỏi cung kính trong Phật giáo. Hai tay nên chấp lại như búp sen, rồi
quì xuống trước Tượng Phật hay các vị Tăng hay Ni khả kính. Khi những
người phật tử gặp nhau, họ cũng chắp tay vái chào với một phong cách
vừa lịch sự, vừa cung kính, vừa thân thương. Đây là một nét đẹp của
văn hoá Phật giáo.
Giáo pháp của
Đức Phật
Giáo pháp (Dhamma)
mà Đức Phật đã chỉ dạy chỉ xoay quanh vấn đề của cuộc đời và cách giải
quyết những vấn nạn của đời người. Thuật ngữ tôn giáo gọi đó là Tứ Diệu Đế
- hay Bốn Sự Thật Trong Đời Sống. Tại sao lại gọi là Sự thật? Vì đó là
những gì chúng ta có thể kinh ngiệm được trong cuộc sống. Bốn sự thật đó
là:
- Không thoả mãn (dukkha),
đây là một kinh nghiệm chung và phổ biến mà người ta cần nhận ra.
- Nguyên nhân của sự không thoả mãn này là tham đắm và dính mắc (Samudaya).
- Sự chấm dứt của bất toại nguyện (Niroddha), phúc lạc cao thượng (Nibbāna paramaṃ sukhaṃ) của sự giải thoát khỏi những ràng
buộc và khổ đau do chấp thủ.
- Con đường đưa đến chấm dứt khổ đau và phúc lạc tối thượng bao
gồm tám yếu tố thường gọi là Bát Chánh Đạo (Magga or Majjhima
paṭipada).
Lần đầu tiên Đức Phật thuyết giảng Giáo Pháp (Dhamma) cho 5 người bạn cũ đã từng
thực hành phép tu khổ hạnh với ngài ở Vườn nai tại thành phố Ba la nại (Baranasi) thuộc Đông bắc Ấn độ hơn
2500 trước. Bài pháp đầu tiên xoay quanh vấn đề pháp hành và các chấp thủ
vào một số xu hướng thịnh hành. Đức phật đã tuyên thuyết về con đường Trung
Đạo (Majjhima paṭipada) là tránh hai cực đoan khổ hạnh ép xác và thụ hưởng
vật chất vô độ[i].
Triết lý đằng sau hai pháp hành cực đoan này là những niềm tin vào thường
kiến – cho rằng có một linh hồn hay bản ngã trường cửu, không thay đổi bị
giam nhốt trong cơ thể này; và đoạn kiến - cho rằng cuộc sống này chỉ có các
giá trị vật chất, khi cơ thể chết đi thì tất cả chấm dứt. Khi cố chấp vào
thường kiến và cho rằng phải hành hạ, bỏ đói và coi thường cơ thể thì mới
giải phóng linh hồn ra khỏi nó – người ta thực hành khổ hạnh ép xác vì tin
rằng chỉ có làm như vậy mới có thể giác ngộ giải thoát. Đối ngược với niềm
tin này là chủ nghĩa vật chất hưởng thụ vô độ - và sẵn sàng làm bất cứ điều gì để được hưởng thụ
mà không cần biết đến hậu quả của nó – vì cho rằng chết là hết – không
hưởng thụ bây giờ thì đến bao giờ!
Mặc dù Giáo Pháp đã được giảng truyền từ hơn
2500 năm trước nhưng không vì vậy mà chúng già cỗi hay lỗi thời. Chính vì
vậy chúng được gọi là Chân Lí, những sự thật không bị chi phối
bởi thời gian và không gian. Suốt hơn 45 năm sau khi giác ngộ và giải
thoát, Đức Phật đã không mệt mỏi đi khắp xứ Bắc Ấn để đem ánh sáng giác ngộ
đến cho mọi người, không phân biệt giai cấp, địa vị hay giàu nghèo. Cuộc
đời ngài là một tấm gương tiêu biểu nhất của hạnh nguyện đại từ bi (mahā karuna).
Xã hội Phật
giáo
Đạo Phật đã có mặt trên thế gian này hơn 2500
năm. Không chỉ giới hạn ở Ấn độ, nơi đầu tiên Đạo Phật đã ra đời và phát
triển, ngày nay Phật giáo là một trong bốn tôn giáo lớn nhất , có tín đồ
khắp nơi trên thế giới. Những người ngưỡng mộ Đức Phật và Giáo pháp của
ngài nguyện thực hành theo giáo pháp này theo khả năng của mình. Họ là
những Phật tử, những người giữ 5 điều răn và tìm về nương tựa nơi Tam bảo
là Phật, Pháp và Tăng. Họ cũng là những người xuất gia (Tăng – Ni), những
người hành trì theo giáo pháp một cách nghiêm túc và rốt ráo hơn hàng cư sĩ
tại gia. Người xuất gia chân chính thì chỉ có một hạnh nguyên duy nhất là
tự độ và độ tha, nghĩa là học hỏi và tu tập theo giáo pháp của Đức Phật để
tự mình giác ngộ giải thoát và giúp đỡ, giảng dạy giáo pháp đó đến những người
khác khiến họ cũng được giảm thiểu những khổ đau và bức bách trong đời
sống.
Tam
qui Tam Bảo là: (1) Qui
y Phật là Bậc giác ngộ (Buddha),
nguời luôn luôn sống tỉnh thức.; (2) Qui
y Pháp (Dhamma) là những lời
dạy của Đức Phật nhằm đưa đến sự an toàn và hạnh phúc lâu dài cho chúng ta;
(3) Qui y tăng (Sangha), đoàn thể cúa những người đã giác ngộ về những chân lý trong
cuộc sống và biết cách sống hoà hợp.
Năm
giới cấm của người phật tử giúp cho họ sống một đời
sống an toàn và không lo sợ. Chúng bao gồm:
- Không sát sanh,
- Không trộm cắp,
- Không tà dâm,
- không nói dối,
- Không uống rượu và lạm dụng các chất gây kích thích.
Trong xã hội Phật giáo, hàng cư sĩ tại gia hay
phật tử thường hộ độ cúng dường đến hàng xuất gia là những người đã từ bỏ
gia đình để tìm cầu giải thoát vì những người này không làm việc kinh doanh
để sinh lợi như hang tại gia.
Bố thí cúng dường là một thiện pháp trong 10
thiện pháp mà người phật tử nên tinh tấn thọ trì. Cúng dường, nhất là đến
những người có giới hạnh, đem đến nhiều phước báu tốt đẹp tuỳ theo ý nguyện
của người dâng cúng. Thiện pháp này giúp người hành trì nó giảm thiểu lòng
tham lam ích kỷ và bỏn xẻn keo kiệt. Khi dứt bỏ được sự tham đắm ích kỷ,
người ta rộng rãi và cao thượng hơn. Cúng dường đến những người có đạo hạnh
thể hiện lòng kính trọng (tôn sư trọng đạo) và sự quan tâm đến những người
khả kính. Đây là một nét văn hoá rất đẹp của Đạo Phật.
Tại sao học Đạo Phật?
- Học Phật là rất tốt vì Đạo Phật dạy
chúng ta sống an lạc, hoà bình và hạnh phúc với mọi người.
- Nếu chúng ta làm theo những lời
khuyên của Đức Phật, chúng ta sẽ tìm được sự an ổn trong tâm hồn, và
chúng ta có cơ hội trưởng thành trong sự hiểu biết chính mình cũng như
thế giới quanh ta.
- Nếu mọi người đều làm theo lời dạy
của Đức Phật thì chiến tranh đã không xảy ra, cũng không có bạo động,
tội ác, và chúng ta có thể tin tưởng vào người khác, vì vậy cảm thấy
an toàn ở mọi nơi ta sống, mọi nơi ta đến.
- Ngay cả những con thú hoang cũng cảm thấy an toàn và hạnh phúc
hơn nếu chúng ta đừng săn đuổi chúng mà hãy bảo vệ chúng.
- Thế giới này sẽ tốt đẹp hơn biết bao, phải không bạn? Và con
người cũng dễ thương hơn nhiều. Điều này thật tuyệt vời!Would it not be a much nicer place to live?
|
Childhood
Experience Tuổi thơ ấu
Một buổi chiều đẹp
trời, vào ngày rằm Tháng Tư, lúc đang dạo chơi trong một công viên xinh
đẹp, hoàng hậu Maha Maya hạ sanh một Hoàng tử khôi ngô
tuấn tú chưa từng có trên đời. Hoàng tử được đặt tên là Siddhattha.
|
Nhưng thật không may, chỉ bảy ngày sau khi hạ sanh
Siddhattha, hoàng hậu Maha Maya đã từ trần, người em gái của Hoàng hậu là
Prajapati Gotami trở thành Di mẫu của Hoàng tử. Siddhattha lớn lên trong tình thương yêu của phụ vương và sự
săn sóc cưng quí của Di mẫu. Dù chỉ là một đứa trẻ, hoàng tử Siddhatta đã
tỏ ra rất nhân ái, khoan dung và hay suy tư.
Trong buổi lẽ hạ điền, Siddhattha đã thấy một người nông dân trong bộ quần áo cũ
rách đang điều khiển con bò cày ruộng. Lần đầu tiên hoàng tử biết rằng
đời sống thật khó khăn vất vả. Vị hoàng nhi này cũng thấy những chú chim
sáo, chim sẻ nhân cơ hội này kiếm mồi và nuốt chửng những con dế, con
giun. Trong lúc đó lại có một con đại bàng đang lăm le chụp bắt con chim
sẻ, chim sáo. Siddhattha suy
nghiệm ra rằng chúng sinh săn đuổi ăn thịt lẫn nhau và chỉ có những ai
mạnh mẽ và nhanh nhẹn mới tồn tại được.
Một buổi sáng khác, Siddhattha lại đang chơi đùa trong vườn ngự uyển với những
hoàng tử khác, một vị hoàng tử em họ của Sĩ Đạt ta đã dùng mũi tên sát
thương một con chim thiên nga, Siddhatta
đã chạy đến ẵm con vật bị thương đang đau đớn quằn quại trên mặt đất lên,
vị hoàng nhi của chúng ta đã nhẹ nhàng gỡ mũi tên ra và cứu sống con chim
vô tội. Siddhattha biết rằng
mọi chúng sinh đều tham sống sợ chết, và rằng mọi loài, mọi người đều có
quyền được sống và chúng ta nê
tôn trọng sự
sống của mọi chúng sinh.
|
|
|
1. Ai
là Siddhattha?
2. Hoàng tử Sĩ Đạt Ta đã sanh ra và sống ở đâu?
3. Sĩ Đạt ta là người như thế nào? Hoàng nhi thường thích làm gì?
4. Tại sao hoàng nhi Sĩ Đạt ta đôi khi lại suy tư?
5. Hãy kể ra một ví dụ cho thấy hoàng tử Sĩ Đạt ta rất nhân từ.
|
|
His Education Quá trình học tập
của hoàng tử
|
Hoàng nhi Siddhattha
lớn lên cùng với người em cùng cha khác mẹ là Hoàng tử Nanda và một số ít các các hoàng
tử của dòng họ Thích Ca. Người bạn thân nhất của hoàng nhi là công tử Kalundayi, con trai của Thủ tướng
vương quốc Sakya dưới chân
Hi-mã-lạp sơn.
Đã đến lúc Hoàng nhi phải học tập. Là một hoàng tử, dĩ nhiên
Siddhattha được giáo dục rất chu đáo.Ở trường học chữ cũng như ở trường
học nghề nghiệp và học võ thuật cung tên, hoàng tử thường được những bậc
thầy giỏi nhất giảng dạy. Vua Tịnh Phạn (Suddhodana) đã mướn những người Bà La Môn giỏi nhất đương
thời để dạy về nghi lễ, tôn giáo, triết học và văn chương, ngữ pháp, và
những môn học khác cho hoàng tử Siddhattha.
Vị hoàng tử khả ái nhận được một sự giáo dục hoàn hảo. Là
một người thông minh và sẵn sàng học hỏi, hoàng tử học rất giỏi và trở
nên thiện xảo trong các môn khoa học quân sự. Nhưng tính cách của Siddhattha hơi khác người, cậu
không vui thích với những trò đùa nghịch ngợm của những trẻ khác cùng
trang lứa, hoàng tử có vẻ trầm tư suy tưởng.
|
|
1. Ai là người bạn thân nhất của
Hoàng tử Siddhattha ?
2. Hoàng nhi đã học với những ai?
3. Đó là những môn học gì?
4. Hoàng tử của chúng ta thích làm gì khi rảnh rỗi:
a. Thích cùng với bạn bè cùng
tuổi?
b. Tham dự vào nhưng trò chơi với bạn bè?
c. Ngủ vùi trong phòng?
d. Suy tưởng cao xa?
Hãy cho những ví dụ để chứng minh
giả thuyết bạn chọn.
|
The
Prince Marries Hoàng tử kết hôn
|
|
|
|
|
Hoàng
tử lớn lên thành một người nhân từ và hào phóng. Mọi người đều yêu mến
Hoàng tử. Vua Tịnh Phạn không muốn Hoàng tử phải trông thấy những cảnh
không đẹp mắt có thể khiến Hoàng tử suy tư nhiều hơn và rời bỏ cung điện.
Bất cứ điều gì gợi lên sự chết chóc, xa lìa hay tan rã như hoa lá úa tàn
đều phải được đưa ra khỏi cung điện. Những người già và người bệnh không
được phép xuất hiện ở những nơi mà Hoàng thái tử thường lui tới. Phụ
hoàng sắp đặt cho tất cả những gì Thái tử thấy, nghe, biết, xúc chạm tới
đều phải mỹ miều xinh đẹp và dễ chịu. Những người hầu hạ Thái tử đều là
người khoẻ mạnh, xinh đẹp và khả ái. Hoàng thái tử ăn ngon, mặc đẹp và
được xem những chương trình vui chơi giải trí vui nhộn nhất.
Hoàng tử vẫn tiếp tục trưởng
thành, rất khoẻ mạnh và đẹp trai. Vào tuổi thanh niên, vua cha quyết định
rằng hoàng tử cần phải lập gia đình. Vua Tịnh Phạn tổ chức một bữa tiệc
lớn mời tất cả các công chúa, mỹ nhân trong vương quốc Sakya cũng như
những thân bằng quyến thuộc lân bang để chọn cô dâu xứng đáng với hoàng
thái tử. Giữa những nàng công chúa xinh đẹp và hàng trăm mỹ nhân khác,
Hoàng tử đã chọn Công chúa Da Du Đà La (Yasodara), là người em họ của mình làm cô dâu. Công chúa cũng
bày tỏ ý nguyện muốn được kết hôn với Hoàng tử Siddhattha mà thôi. Đám cưới hoàng gia đã được tổ chức rất
trọng thể. Lúc đó cả hai người vừa tròn 16 tuổi.
|
|
-----------------Bốn dấu
hiệu
Cuộc đối
thoại dưới đây có thể dùng như một vở kịch hoặc như bài tập đọc: ba trẻ có
thể đóng vở diễn này, một làm thái tử Sĩ Đạt Ta, một đóng vai Xa nặc, người
đánh xe than tín của thái tử, một trẻ làm tường thuật viên, và những trẻ
khác làm phông như người đi đường chứng kiến.
Tường thuật viên: Thái
tử Siddhattha trở nên tò mò muốn
biết về đời sống bên ngoài cung điện. Năm 29 tuổi, thái tử tự ý đi ra ngoài
cùng với người đánh xe ngựa thân tín của mình. Không báo cho Phụ vương
biết, thái tử cùng Xa nặc quyết định dạo chơi kinh thành Ca Tỳ la vệ. Trong
những lần đi này, thái tử thấy bốn dấu hiệu.
Sight
I cảnh thứ nhất
Thái tử thấy một người già, chỉ vào người
già, ông hỏi: Có điều gì xẩy ra với người này vậy, Xa Nặc?
Xa Nặc: Đó là một lão già, thưa ngài. Ai rồi cũng phải vậy à.
Thái tử : Cái gì? Mọi
người đều phải vậy ư?
Xa Nặc: Thưa vâng, tuổi già đến với mọi người.
Thái tử: Có phải tuổi già thường tàn phá tuổi trẻ, sắc đẹp và sức
mạnh không?
Xa Nặc: Vâng thưa ngài.
Thái tử: Trở vè thôi, Xa nặc. Làm sao ta có thể vui chơi khi tim
ta đang buồn lo về tuổi già?
Sight
2 Cảnh thứ hai
Tường thuật viên: ngày hôm sau, thái tử lại muốn ra dạo ngoài cửa thành. Một
lần nữa, một cảnh tượng bên đường lại làm thái tử chú ý đến. Đó là một
người bị bệnh phong cùi.
Thái tử: (chỉ vào người bị phong cùi): người này bị gì vậy?
Xa Nặc: Ồ thưa ông chủ, đó là một người cùi hủi. Bệnh tật khiến
người ta như vậy đó.
Sight 3 Cảnh thứ
ba
Tường thuật viên: Trong chuyến đi thứ ba, Thái tử hy vọng không còn phải chứng
kiến cảnh đau khổ nữa. Nhưng kìa, lại một cảnh tang tóc với thân nhân của
người chết đang than khóc cảnh tử biệt.
Thái tử: Cái gì vậy? Họ đang mang cái gì đi vậy?
Xa Nặc: Cái đó, thưa
ngài, là một người chết.
Thái tử: Có phải mọi người đều phải chung cảnh ngộ đó không?
Xa Nặc: Vâng, thưa ngài, chúng ta thảy đều phải chết.
Sight 4 Cảnh thứ tư
Tường thuật viên: Thái tử quyết định làm một chuyến du ngoạn cuối cùng ra ngoài
hoàng cung. Trong dịp này hoàng tử thấy một vị Sa môn (samana) đang đi một mình, ăn mặc khá rách rưới, vô sản nhưng có
một nét mặt an tịnh và hạnh phúc bình yên.
Thái tử: Ai vậy, Xa nặc?
Xa Nặc: Đó là một vị Sa môn, một người thánh thiện.
Thái tử: Mặc dù ông ta trông rất nghèo khổ nhưng lại hạnh phúc và
nhẹ nhõm. Tại sao vậy nhỉ?
Xa Nặc: (chỉ vào vị tu sĩ) Có lẽ, ông ta đã phát hiện ra điều bí
mật gì đó; hình như tật bệnh, già nua và cái chết không còn là điều đáng sợ
đối với ông ấy.
Tường thuật viên: Siddhattha đã buồn bã khi thấy những cảnh khổ đau không tránh
khỏi trong đời người. Nhưng Thái tử cũng đã tìm được giải pháp cho nhân
sinh và những vấn nạn của cuộc đời – đó là vị Sa môn, người biết đủ chỉ với
những vật chất đơn giản nhất.
Vào lúc
nửa đêm, Thái tử đã trốn khỏi hoàng cung để đi tìm chân lý và hạnh phúc vô
điều kiện mà thái tử đã thấy ở vị tu sĩ.
Mọi sinh linh đều tham sống sợ chết
và nhiều loài có tuổi thọ ngắn ngủi hơn con người.
Life is dear to all living beings and many have much shorter
lives than people do.
|
1.
Những con vật này có tuổi thọ bao lâu:
butterfly- Bươm bướm, spider – nhện, lizard – thạch sùng, small fish – cá
nhỏ, cat - mèo, dog - chó, rabbit – thỏ, monkey – khỉ, tiger – hổ,
elephant - voi?
2. Các sinh linh có chung một điều gì?
3. Con có cảm nhận gì khi thấy ai đó đau yếu hay già nua?
4. Trong số những người thân quen
của con thời gian gần đây có ai chết không? Con cảm thấy như thế nào
trước sự kiện đó?
|
|
Enlightenment under the Bodhi
Tree Giác ngộ dưới gốc Bồ đề
|
Từ Phật hay Bụt (dịch âm) có nghĩa là “giác ngộ” hay “tỉnh
thức”, và đó là một danh hiệu để gọi tất cả những ai đã đạt đến trạng
thái cao thượng và giác ngộ viên mãn. Các Phật tử tin rằng đã từng có rất
nhiều vị Phật và sẽ còn có nhiều vị Phật nữa ra đời.
Trước khi giác ngộ, vị Phật hiện
tại có tên là Sĩ Đạt ta (Siddhattha),
có nghĩa là “nguyện ước thành tựu” hay “Như Ý” , họ của ngài là Gô-ta-ma
(Gautama), trong dòng tộc Thích
Ca (Sakyas). Như một người đi
tìm chân lý, ngài được gọi là “Ẩn Sĩ Thích ca" (Sakyamuni), hay bậc ẩn sĩ thuộc dòng tộc Thích ca (Sakyas). Suốt sáu năm dài, ngài
thực hành theo phép tu khổ hạnh, nhưng đã không tìm ra giác ngộ giải
thoát mà chỉ làm mòn mỏi cơ thể một cách vô ích. Từ sự suy luận và thực
hành, ngài chọn ra con đường “Trung Đạo”, tránh hai cực đoan của việc ép
xác khổ hạnh và việc đuổi bắt theo những dục lạc phù phiếm.
Vào tuổi 35, ngài đạt đến Giác
Ngộ Tối Thượng (Nirvana, or Nibbana in Pali) và
như vậy được gọi là Đức Phật. Sau khi giác ngộ, ngài đi khắp miền bắc Ấn
giảng dạy giáo pháp đem đến giác ngộ giải thoát. Ngài tịch diệt hay nhập
Niết Bàn vào lúc 80 tuổi.
|
|
Hình ảnh Đức
Phật thường được tạc hay vẽ ngồi kiết già trên toà sen. Với những người
Phật tử, hoa sen là biểu tượng của sự trong sạch và giải thoát. Cội rễ
của hoa sen thì mọc trong bùn dơ và nước tù đọng như tâm địa chúng ta
thường ngập chìm trong sân si và tham lam. Hoa sen vươn lên khỏi mặt nước
và từ từ mở ra đón nhận ánh sáng mặt trời, toả hương thơm dịu dàng tinh
khiết. Cũng như vậy, tâm ý chúng ta cũng có thể vươn lên đạt đến giác ngộ
và tỏa hương thơm giải thoát.
|
|
|
|
|
1. Tại sao hình ảnh Đức Phật
thường có một vùng hào quang toả sáng quanh đầu?
2. Cây gì mà dưới cội đó Đức Phật đã đạt đến giác ngộ?
|
The
Great Renunciation – Cuộc xuất gia vĩ đại-----------
Vào một đêm trăng
sáng của Tháng Bảy (ngày rằm tháng July, Âsâlha), Sĩ Đạt Ta ngồi trầm ngâm
suy tư: “Tuổi trẻ và sự cường tráng phải chấm dứt trong sự già nua và bệnh
tật, chết chóc khi người ta không ai muốn điều đó xẩy ra. Có cách gì để
vượt qua sợ hãi và đau đớn khi bệnh tật, chết chóc xẩy ra không? Phải chăng
con đường đi đến bất tử là hiện thực trong đời sống tu hành?...”
Với những suy tư như
vậy, Sĩ Đạt Ta không còn vui sướng hưởng thụ tuổi trẻ đầy sức sống và ham
muốn của tuổi 29. Thái tử thấy sự phù du ảo hóa của tuổi trẻ, sắc đẹp, sức
mạnh và quyền lực, chàng quyết chí ra đi tìm những giá trị khác mà đời sống
xa xỉ thượng lưu không thể đạt được. Đó là ý nghĩa và bản chất của cuộc
đời, là phúc lạc không tàn phai, là con đường bất tử. Con đường này không
phải chỉ đem đến sự giải thoát cho chàng mà cho tất cả mọi sinh linh trong
đó có vợ con chàng. Chàng biét những người than yêu sẽ rất buồn đau khi
vắng bong chàng, và đứa con trai bụ bẫm, kháu khỉnh mới sinh là một mối
ràng buộc mãnh liệt với đời sống thế tục. Nhưng Thái tử cũng biết rằng
chàng không thể bảo vệ chính mình và những người than yêu thoát khỏi những
buồn đau của chia ly do sinh già bệnh chết nếu chàng tiép tục sống đời sống
thế tục. Tình yêu thương nhân thế bao trùm bàng bạc trong tâm hồn thái tử.
Chàng quyết định ra đi, hy sinh hạnh phúc nhỏ nhai và chóng tàn cho một
hạnh phúc cao đẹp, rộng lớn và bền lâu hơn. Thái tử vào phòng Da du đà La,
lần cuối âu yếm nhìn con thơ và vợ hiền, lòng từ bi ngập tràn tâm hồn
chàng…
Sau
khi rời hoàng cung vào ngày Rahula chào đời, Sĩ Đạt Ta đã lang thang trong
các khu rừng trong vương quốc Ma Kiệt Đà, tự mình khám phá những phương
pháp thiền định khác nhau trong các pháp tu khổ hạnh lưu truyền đương thời.
Đã có lúc người Sa Môn trẻ tuổi có dòng dõi hoàng gia này tìm đến những bậc
thầy nổi tiếng đương thời. Họ là Alâra Kâlâma và Uddaka Râmaputta
Như vậy ở tuổi 29,
Thái tử Tất Đạt Đa ở độ tuổi thanh niên sung mãn nhất, cũng là lúc người vợ
xinh đẹp Da du Đà La vừa hạ sinh người con trai duy nhất, người đã coi
khinh và từ bỏ tất cả những quyến rũ của đời sống hoàng cung. Người đã từ
bỏ những gì mà người đời ước mơ và cố công giành giật, quay mình bỏ đi để
lại vợ đẹp con xinh và cả vương miện của quyền lực và vinh quang.
Ông đã cắt bỏ râu
tóc với thanh gươm báu, đổi áo bào lấy mảnh y ẩn sĩ và cư ngụ nơi hoang dã
hay trong rừng sâu thực hành thiền định để tìm ra giải pháp cho những vấn
đề đang làm ông bận tâm một cách sâu sắc. Đời sống du sĩ giúp ông quan sát
và chiêm nghiệm về đời sống để tìm ra câu trả lời cho những vấn đề hóc búa
của đời sống. Chân lý mà vị ẩn sĩ này tìm kiếm không phải là liều thuốc
giảm đau, mà là một phương cách hữu hiệu và triệt để nhất để vượt qua đau
khổ, đi đến sự giác ngộ toàn vẹn và sự tịch lặng của Niết Bàn – một trạng
thái không còn tham, sân, si. Đó chính là bắt đầu của một hành trình từ bỏ
vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, một cuộc dấn thân có một không hai
trên thế giới này.
Giáo lý Tứ
Diệu Đế
Những lời dạy của
Đức Phật được gọi là Pháp. Biểu tượng của giáo pháp là Bánh xe Chuyển
Pháp Luân có tám trục là Bát Thánh Đạo. Đây cũng là biểu trưng của Phật
Giáo.
Đức Phật thì như một vị lương y. Ngài thấy nỗi đau khổ
của thế giới, tìm ra nguyên nhân của nó, ngài tự mình chữa trị khỏi bệnh
và dạy người khác cách cứu chữa cho hết bệnh.
|
|
Khi người ta bị bệnh, họ thường đi đến bác sĩ để tìm
xem tại sao họ phải đau đớn. Hãy viết ra những bước cần thiết mà bác sĩ
làm khi họ khám bệnh, chẩn đoán và cho đơn thuốc.
|
|
Sự thật về khổ trong mắt thánh
nhân
Phật dạy rằng sinh, già, bệnh, chết,
không đạt được những gì mình muốn, phải gần người mình ghét, phải xa
người mình thương là đau khổ.
|
|
Nguyên nhân của khổ trong mắt
thánh nhân
Khổ là
do vướng mắc vào những tham vọng ích kỷ và thiếu hiểu biết về bản chất
cuộc đời.
|
|
Sự chấm dứt đau khổ
Đau khổ được chấm dứt khi không
còn những tham vọng ích kỷ, nghĩa là không còn tham, sân, si. Sự chấm dứt
này gọi là Niết bàn, hạnh phúc cao thượng và an ổn nhất mà con người có
thể đạt tới.
|
|
Con đường thánh thiện dẫn đến chấm
dứt khổ đau
Đức Phật dạy rằng con đường dẫn
đến chấm dứt đau khổ là Thánh đạo tám ngành:
(1) Nói lời chân chính;
(2) Hành động đúng đắn;
(3) Sống lương thiện;
(4) Nỗ lực đúng đắn;
(5) Nhớ nghĩ đúng lúc;
(6) Tập trung tư tưởng đúng cách;
(7) Thái độ tích cực;
(8) Có chính kiến.
* Có vẻ như Đạo phật không bắt
đầu bằng đức tin. Vậy người phật tử tin gì để tránh làm ác, nói ác, nghĩ
ác và hướng thiện trong lời nói, hành động và tư tưởng? Họ được dạy tin
vào nghiệp và quả của nghiệp, hay tin nhân quả là có thật và liên hệ trực
tiếp đến đời sống mỗi người, mỗi loài và toàn thể thế giới này.
|
|
Bắt đầu con đường này, đức Phật hướng dẫn người ta giữ năm giới để
có hạnh kiểm tốt.
|
Làm sao để lời dạy của Phật
mang hòa bình đến cho trái đất này.
|
3. Thế giới này sẽ ra sao khi không
có chiến tranh, bắn giết, tranh giành, tội phạm và dối trá? Hãy mô tả và vẽ
ra viễn cảnh đó.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét